Papers by Nguyễn Giang
Vietnam Journal of Indian and Asian studies, 2021
On the basis of the impact of the wave of Indianization and the process of de-Indianization in So... more On the basis of the impact of the wave of Indianization and the process of de-Indianization in Southeast Asia as a law of movement and inevitable development of history for Vietnam, the article uses interdisciplinary, method of comparison (synchrony and chronology), and absorbing research achievements of archeology, history, and culturology to recreate the process of acculturation of Indian culture in Vietnam from ancient times to the beginning of time. 20th century on typical aspects such as religion, belief, architecture, sculpture, art, literature and language. That process has made the Vietnamese cultural model profoundly changed, and nurtured by exogenous factors that have been localized according to the national context as well as the context of the times. These are also important prerequisites that can promote the development of cultural diplomacy cooperation between the two countries in the current strong globalization trend.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Sciences and Technology Development Journal, 2021
Located in a region having close historical-cultural relations with the area of Southeast Asia; h... more Located in a region having close historical-cultural relations with the area of Southeast Asia; however, Australia has always considered itself and is considered as a special outpost of the West in Asia-Pacific. Since World War II up to now, the strategic alliance between Australia and the US has been developed comprehensively and deeply. Particularly, in the purpose of getting the protection of security from the US toward the Near-North region, it's obvious that Australia had to accept the figure of mobilization and wounded soldiers, advisories, and military workers during the period of the Vietnam war equivalent to the mobilization and the wounded ones during the period of the two World Wars that Australia participated in along with the British troops. To illustrate the aforementioned content, this article focuses on analyzing some objective factors including the development of the movement of national liberation, the founded and rising of Chinese socialism, and the policies of Southeast Asia of the US during the period of World War II, along with some subjective factors influencing on the founded and development of the strategic alliance between Australia and the US including the national interest and the role of Australia during the Vietnam war, the economic-cultural-political platforms of the US - Australia relations, and three key factors expressing the depth of these relations including military, politics-diplomacy, cultures-education-sciences and technology.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Nghiên cứu Đông Nam Á, 2019
Đã 65 năm kể từ ngày Việt Nam - Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao (1955-2020), quan hệ giữa ... more Đã 65 năm kể từ ngày Việt Nam - Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao (1955-2020), quan hệ giữa hai nước đã có nhiều thay đổi đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam-Indonesia đã phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ quan hệ chính trị-an ninh và quan hệ kinh tế - văn hóa - giáo dục giữa Việt Nam-Indonesia trong 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, từ khi đặt quan hệ cấp lãnh sự năm 1957 đến nay, đặc biệt sau khi Indonesia trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam vào năm 2013. Trong quá trình đó, mặc dù chịu nhiều tác động chi phối từ các nhân tố nội tại cũng như nhân tố bên ngoài, nhưng quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam-Indonesia vẫn được duy trì, gần như không có gián đoạn và đã trở thành động lực then chốt đảm bảo cho sự phát triển quan hệ chính trị-an ninh song phương. Kim ngạch song phương cùng với số vốn và dự án đầu tư của cả hai nước đã tăng đáng kể trong vòng 30 năm qua, nhưng quy mô hợp tác vẫn chưa thực sự tương xứng. Đặc biệt, quan hệ chính trị - an ninh Việt Nam - Indonesia còn vấp phải nhiều cản trở từ nhân tố các nước lớn đối với khu vực, từ cục diện xung đột Đông-Tây ở châu Á trong chiến tranh Lạnh đến vấn đề biển Đông ở Nam Trung Hoa trong thời hiện đại.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
55 năm qhe VN - Indonesia, 2019
Đã 65 năm kể từ ngày Việt Nam - Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao (1955-2020), quan hệ giữa ... more Đã 65 năm kể từ ngày Việt Nam - Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao (1955-2020), quan hệ giữa hai nước đã có nhiều thay đổi đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam-Indonesia đã phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ quan hệ chính trị-an ninh và quan hệ kinh tế - văn hóa - giáo dục giữa Việt Nam-Indonesia trong 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, từ khi đặt quan hệ cấp lãnh sự năm 1957 đến nay, đặc biệt sau khi Indonesia trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam vào năm 2013. Trong quá trình đó, mặc dù chịu nhiều tác động chi phối từ các nhân tố nội tại cũng như nhân tố bên ngoài, nhưng quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam-Indonesia vẫn được duy trì, gần như không có gián đoạn và đã trở thành động lực then chốt đảm bảo cho sự phát triển quan hệ chính trị-an ninh song phương. Kim ngạch song phương cùng với số vốn và dự án đầu tư của cả hai nước đã tăng đáng kể trong vòng 30 năm qua, nhưng quy mô hợp tác vẫn chưa thực sự tương xứng. Đặc biệt, quan hệ chính trị - an ninh Việt Nam - Indonesia còn vấp phải nhiều cản trở từ nhân tố các nước lớn đối với khu vực, từ cục diện xung đột Đông-Tây ở châu Á trong chiến tranh Lạnh đến vấn đề biển Đông ở Nam Trung Hoa trong thời hiện đại.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Nghien cuu Khoa hoc Sinh vien VNU-HCM, 2019
Nếu thế kỷ XIX được xem là thế kỷ của Địa Trung Hải và châu Âu, thế kỷ XX là thế kỷ của Đại Tây D... more Nếu thế kỷ XIX được xem là thế kỷ của Địa Trung Hải và châu Âu, thế kỷ XX là thế kỷ của Đại Tây Dương và nước Mỹ, thì thế kỷ XXI được xem là thế kỷ của Thái Bình Dương và châu Á. Một trong những nguyên nhân chính cho thấy điều đó chính là sự trỗi dậy của hàng loạt các quốc gia, nền kinh tế hoá rồng, hoá hổ ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, và Ấn Độ. Trong khi các đời Chủ tịch nước CHND Trung Hoa từ Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm Đào
tuyên bố về sự trỗi dậy “hoà bình”, Tập Cận Bình lại quyết định mở sang một thời kỳ mới, đặt dấu chấm hết cho giai đoạn “ẩn mình chờ thời” của Trung Quốc. Đó là giai đoạn thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đế chế Trung Hoa rộng lớn đầy tự hào của Trung Quốc, thông qua sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển (MSR), và Vành đai con đường tơ lụa trên bộ qua Nam Á và Tây Á tới châu Âu, sau đó được phát triển thành sáng kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) hay Vành đai và Con đường (BRI). Ra đời trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có phần chững lại, và ảm đạm với đầy hoài nghi về nợ xấu, bong bóng khủng hoảng cũng như bẫy thu nhập trung bình mà Trung Quốc cần phải vượt qua, sáng kiến Một vành đai – Một con đường vì thế không chỉ nhằm gia tăng sự hiện diện cũng như sức ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực lục địa Á – Âu và châu Phi, mà trên hết nó còn là lối thoát để chính quyền Bắc Kinh giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nhức nhói trong nước đến từ sự già hoá dân số, lao động, nhu cầu tăng tính tập quyền nhà nước pháp trị, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như đến từ cơn khát tài nguyên, nhiên liệu và thị trường lao động đến từ Đông Nam Á nhằm đáp ứng cho nhu cầu và thị trường rộng lớn ở Trung Quốc đang ngày càng gia tăng vượt mức quy mô dân số. Trải qua nhiều gia đoạn thực hiện, triển khai từ cuối năm 2013 đầu năm 2014 đến nay, với sự tham gia hỗ trợ từ hàng loạt các cơ chế, chính sách cụ thể cấp nhà nước tới địa phương, sáng kiến Một vành đai – Một con đường cuối cùng cũng đã giành được một số kết quả, thành
tựu to lớn nhất định, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. điển hình là sự ra đời của AIIB, ADB và Quỹ Con đường tơ lụa trên biển, những thể chế tổ chức quốc tế được xem như là đối lập hoàn toàn với những tổ chức truyền thống trong trật tự thế giới do Mỹ sáng lập như WB, Quỹ IMF, Quỹ Phục hưng nền kinh tế châu Âu (Marshall), … Và một trong những tác động lớn nhất của sáng
kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) của Trung Quốc chính là tác động tới điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước bị ảnh hưởng như Ấn Độ từ giai đoạn cuồi 2013 đầu 2014 đến nay đối với sáng kiến Một vành đai – Một con đường của Trung Quốc nói riêng.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
University of Social sciences and Humanities, 2018
Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) là cuộc chiến xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ nhằm kiềm tỏa ả... more Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) là cuộc chiến xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ nhằm kiềm tỏa ảnh hưởng của Mỹ đối với Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô, Trung Quốc. Đó là cuộc chiến bảo vệ độc lập của quân dân ba miền của Việt Nam trước 50 – 60 vạn quân Mỹ và quân chư hầu. Qua các chiến thắng Đồng Khởi (1960), Ấp Bắc (1963), Tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân (1968), Tổng tiến công chiến lược (1972) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975), các chiến lược chiến tranh của các đời tổng thống Mỹ đều đã lần lượt thất bại. Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến mà quân đội Austtralia tham chiến lâu nhất (từ tháng 8 năm 1962 tới tháng 6 năm 1973), khốc liệt nhất (50,000 quân tham chiến thì hết 521 người chết, 3100 người bị thương), tổn thất nhiều nhất (gần nửa tỉ đô la Mỹ) chỉ sau hai cuộc thế chiến và cuộc chiến Afganistan. Điều cốt lõi khiến Australia quyết định tham chiến cũng như quyết định rút quân khỏi chiến tranh Việt Nam đều là lợi ích quốc gia của Australia, cụ thể là lợi ích quốc phòng và lợi ích kinh tế. Vì lợi ích phòng thủ quốc gia của mình, Australia đã chấp nhận thuyết Domino của Hoa Kỳ, đã vận dụng nó vào chiến lược Phòng thủ tiền tiêu của mình, đã quyết định thực hiện nghĩa vụ tất yếu ủng hộ cuộc chiến trong quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ đổi lấy những khoản chi phí quốc phòng – an ninh từ Mỹ, và cuối cùng là đã quyết định tham chiến tại Việt Nam. Song cũng vì lợi ích kinh tế, quốc phòng, cần phải duy trì lực lượng lao động bảo vệ nền kinh tế - an ninh phòng thủ quốc gia ngay trên lãnh thổ của người Úc, không thể để số lượng thanh niên Úc lên đường chiến đấu mãi cho một cuộc chiến không còn triển vọng chiến thắng nào nên Australia đã quyết định rút lui dần khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1971 – 1973. Cuối cùng, cuộc chiến tranh Việt Nam (1965 – 1973) cũng là một trong những nguyên nhân chủ đạo đã chi phối nền chính trị và chính sách đối ngoại của Australia trong suốt một thập kỷ.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
University of Social Sciences and Humanities, 2019
Australia thuộc nhóm nước phát triển đã tiến hành công nghiệp hóa, có tiềm lực kinh tế, khoa học ... more Australia thuộc nhóm nước phát triển đã tiến hành công nghiệp hóa, có tiềm lực kinh tế, khoa học kĩ thuật, vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật, kết cấu hạ tầng, dự trữ ngoại tệ cao, nguồn lực phát triển kinh tế thuận lợi, mức tăng trưởng kinh tế ổn định (tính đến 2015 là 25 năm tăng trưởng kinh tế liên tục không một đợt suy thoái, với tốc độ bình quân 3,3%/năm), lạm phát thấp, hệ thống mạng lưới trung tâm thương mại tài chính giao thông liên lạc tạo điều kiện thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, phát triển mạnh mẽ các ngành sản xuất.
Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tập trung hóa sản xuất cao độ, việc phát triển các công ty xuyên quốc gia có sức mạnh chi phối hoạt động của chính phủ cả nước phần lớn nằm trong tay các công ty tư bản và chủ các trang trại. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo hình thức trang trại quy mô lớn, trình độ chuyên môn hóa cao, sử dụng lực lượng lao động ít, có năng suất cao, chất lượng tốt. Chăn nuôi có giá trị thu nhập cao hơn trồng trọt, các sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh
trên trường quốc tế, các mặt hàng chế tạo chiếm tỉ trọng chủ yếu các loại hàng hóa xuất khẩu.
Ngành giáo dục đẳng cấp thế giới của Australia được coi là một nguồn lực quan trọng đối với xã hội và cũng đã trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu đạt hơn 20 tỷ Đô-la nhờ thu hút sinh viên quốc tế từ xa và rộng. Australia tự hào có một hệ thống giáo dục phát triển tốt bao gồm các trường mầm non, tiểu học và trung học, đại học và các tổ chức đại học khác như TAFE – Chương trình giáo dục chuyên về Kỹ thuật và Thực hành ở bậc Cao đẳng cùng một loạt các chương trình hỗ trợ giáo dục người lớn
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Drafts by Nguyễn Giang
Nghiên cứu Lịch sử
Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) là cuộc chiến xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ nhằm kiềm tỏa V... more Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) là cuộc chiến xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ nhằm kiềm tỏa Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản. Qua các chiến thắng Đồng Khởi (1960), Ấp Bắc (1963), Tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân (1968), Tổng tiến công chiến lược (1972) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975), các chiến lược chiến tranh của các đời tổng thống Mỹ đều đã lần lượt thất bại. Chiến tranh Việt Nam (1962 – 1975) đã chi phối nền chính trị và chính sách đối ngoại của Australia trong suốt một thập kỷ. Cả một thế hệ những người Australia sinh ra trong thập niên 50, 60 của thế kỉ XX bị ảnh hưởng bởi cách nhìn thế giới qua lăng kính tàn nhẫn của chính quyền Canberra. Sự tham chiến không như ý tại Việt Nam chính là một nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên minh Bảo thủ ở Australia cũng như mở đầu cho thắng lợi liên tiếp trong suốt ¼ thế kỷ.của Công Đảng.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Conference Presentations by Nguyễn Giang
Đa dạng văn hóa: lý luận, thực tiễn và chính sách, 2020
Lớp văn hóa bản địa gốc Đông Nam Á của người Việt, cùng với văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa, văn... more Lớp văn hóa bản địa gốc Đông Nam Á của người Việt, cùng với văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa, văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp là những dòng chủ lưu văn hóa trong lịch sử Việt Nam theo góc nhìn đa văn hóa (đa dạng văn hóa). Quá trình tiếp biến và bản địa hóa các yếu tố của văn hóa ngoại sinh du nhập Việt Nam có nhiều đặc điểm và hệ quả riêng biệt. Trong giai đoạn tiếp biến và hội nhập văn hóa sao cho phù hợp với điều kiện lịch sử - địa lý - văn hóa xã hội của nước nhà đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, việc tìm hiểu sự hình thành, phát triển và tác động của những dòng chủ luu văn hóa này trong lịch sử Việt Nam là vô cùng cần thiết. Bài viết vì vậy tập trung một số khía cạnh chính trong từng dòng chảy văn hóa chủ đạo này, từ đó đưa ra một số nhận định về quá trình tiếp biến và bản địa hóa các yếu tố văn hóa ngoại sinh.
Bookmarks Related papers MentionsView impact
Uploads
Papers by Nguyễn Giang
tuyên bố về sự trỗi dậy “hoà bình”, Tập Cận Bình lại quyết định mở sang một thời kỳ mới, đặt dấu chấm hết cho giai đoạn “ẩn mình chờ thời” của Trung Quốc. Đó là giai đoạn thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đế chế Trung Hoa rộng lớn đầy tự hào của Trung Quốc, thông qua sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển (MSR), và Vành đai con đường tơ lụa trên bộ qua Nam Á và Tây Á tới châu Âu, sau đó được phát triển thành sáng kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) hay Vành đai và Con đường (BRI). Ra đời trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có phần chững lại, và ảm đạm với đầy hoài nghi về nợ xấu, bong bóng khủng hoảng cũng như bẫy thu nhập trung bình mà Trung Quốc cần phải vượt qua, sáng kiến Một vành đai – Một con đường vì thế không chỉ nhằm gia tăng sự hiện diện cũng như sức ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực lục địa Á – Âu và châu Phi, mà trên hết nó còn là lối thoát để chính quyền Bắc Kinh giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nhức nhói trong nước đến từ sự già hoá dân số, lao động, nhu cầu tăng tính tập quyền nhà nước pháp trị, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như đến từ cơn khát tài nguyên, nhiên liệu và thị trường lao động đến từ Đông Nam Á nhằm đáp ứng cho nhu cầu và thị trường rộng lớn ở Trung Quốc đang ngày càng gia tăng vượt mức quy mô dân số. Trải qua nhiều gia đoạn thực hiện, triển khai từ cuối năm 2013 đầu năm 2014 đến nay, với sự tham gia hỗ trợ từ hàng loạt các cơ chế, chính sách cụ thể cấp nhà nước tới địa phương, sáng kiến Một vành đai – Một con đường cuối cùng cũng đã giành được một số kết quả, thành
tựu to lớn nhất định, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. điển hình là sự ra đời của AIIB, ADB và Quỹ Con đường tơ lụa trên biển, những thể chế tổ chức quốc tế được xem như là đối lập hoàn toàn với những tổ chức truyền thống trong trật tự thế giới do Mỹ sáng lập như WB, Quỹ IMF, Quỹ Phục hưng nền kinh tế châu Âu (Marshall), … Và một trong những tác động lớn nhất của sáng
kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) của Trung Quốc chính là tác động tới điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước bị ảnh hưởng như Ấn Độ từ giai đoạn cuồi 2013 đầu 2014 đến nay đối với sáng kiến Một vành đai – Một con đường của Trung Quốc nói riêng.
Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tập trung hóa sản xuất cao độ, việc phát triển các công ty xuyên quốc gia có sức mạnh chi phối hoạt động của chính phủ cả nước phần lớn nằm trong tay các công ty tư bản và chủ các trang trại. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo hình thức trang trại quy mô lớn, trình độ chuyên môn hóa cao, sử dụng lực lượng lao động ít, có năng suất cao, chất lượng tốt. Chăn nuôi có giá trị thu nhập cao hơn trồng trọt, các sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh
trên trường quốc tế, các mặt hàng chế tạo chiếm tỉ trọng chủ yếu các loại hàng hóa xuất khẩu.
Ngành giáo dục đẳng cấp thế giới của Australia được coi là một nguồn lực quan trọng đối với xã hội và cũng đã trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu đạt hơn 20 tỷ Đô-la nhờ thu hút sinh viên quốc tế từ xa và rộng. Australia tự hào có một hệ thống giáo dục phát triển tốt bao gồm các trường mầm non, tiểu học và trung học, đại học và các tổ chức đại học khác như TAFE – Chương trình giáo dục chuyên về Kỹ thuật và Thực hành ở bậc Cao đẳng cùng một loạt các chương trình hỗ trợ giáo dục người lớn
Drafts by Nguyễn Giang
Conference Presentations by Nguyễn Giang
tuyên bố về sự trỗi dậy “hoà bình”, Tập Cận Bình lại quyết định mở sang một thời kỳ mới, đặt dấu chấm hết cho giai đoạn “ẩn mình chờ thời” của Trung Quốc. Đó là giai đoạn thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đế chế Trung Hoa rộng lớn đầy tự hào của Trung Quốc, thông qua sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển (MSR), và Vành đai con đường tơ lụa trên bộ qua Nam Á và Tây Á tới châu Âu, sau đó được phát triển thành sáng kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) hay Vành đai và Con đường (BRI). Ra đời trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có phần chững lại, và ảm đạm với đầy hoài nghi về nợ xấu, bong bóng khủng hoảng cũng như bẫy thu nhập trung bình mà Trung Quốc cần phải vượt qua, sáng kiến Một vành đai – Một con đường vì thế không chỉ nhằm gia tăng sự hiện diện cũng như sức ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực lục địa Á – Âu và châu Phi, mà trên hết nó còn là lối thoát để chính quyền Bắc Kinh giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nhức nhói trong nước đến từ sự già hoá dân số, lao động, nhu cầu tăng tính tập quyền nhà nước pháp trị, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như đến từ cơn khát tài nguyên, nhiên liệu và thị trường lao động đến từ Đông Nam Á nhằm đáp ứng cho nhu cầu và thị trường rộng lớn ở Trung Quốc đang ngày càng gia tăng vượt mức quy mô dân số. Trải qua nhiều gia đoạn thực hiện, triển khai từ cuối năm 2013 đầu năm 2014 đến nay, với sự tham gia hỗ trợ từ hàng loạt các cơ chế, chính sách cụ thể cấp nhà nước tới địa phương, sáng kiến Một vành đai – Một con đường cuối cùng cũng đã giành được một số kết quả, thành
tựu to lớn nhất định, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. điển hình là sự ra đời của AIIB, ADB và Quỹ Con đường tơ lụa trên biển, những thể chế tổ chức quốc tế được xem như là đối lập hoàn toàn với những tổ chức truyền thống trong trật tự thế giới do Mỹ sáng lập như WB, Quỹ IMF, Quỹ Phục hưng nền kinh tế châu Âu (Marshall), … Và một trong những tác động lớn nhất của sáng
kiến Một vành đai – Một con đường (OBOR) của Trung Quốc chính là tác động tới điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước bị ảnh hưởng như Ấn Độ từ giai đoạn cuồi 2013 đầu 2014 đến nay đối với sáng kiến Một vành đai – Một con đường của Trung Quốc nói riêng.
Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tập trung hóa sản xuất cao độ, việc phát triển các công ty xuyên quốc gia có sức mạnh chi phối hoạt động của chính phủ cả nước phần lớn nằm trong tay các công ty tư bản và chủ các trang trại. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo hình thức trang trại quy mô lớn, trình độ chuyên môn hóa cao, sử dụng lực lượng lao động ít, có năng suất cao, chất lượng tốt. Chăn nuôi có giá trị thu nhập cao hơn trồng trọt, các sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh
trên trường quốc tế, các mặt hàng chế tạo chiếm tỉ trọng chủ yếu các loại hàng hóa xuất khẩu.
Ngành giáo dục đẳng cấp thế giới của Australia được coi là một nguồn lực quan trọng đối với xã hội và cũng đã trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu đạt hơn 20 tỷ Đô-la nhờ thu hút sinh viên quốc tế từ xa và rộng. Australia tự hào có một hệ thống giáo dục phát triển tốt bao gồm các trường mầm non, tiểu học và trung học, đại học và các tổ chức đại học khác như TAFE – Chương trình giáo dục chuyên về Kỹ thuật và Thực hành ở bậc Cao đẳng cùng một loạt các chương trình hỗ trợ giáo dục người lớn