Bước tới nội dung

Acanthurus auranticavus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Acanthurus auranticavus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Acanthuridae
Chi (genus)Acanthurus
Loài (species)A. auranticavus
Danh pháp hai phần
Acanthurus auranticavus
Randall, 1956

Acanthurus auranticavus là một loài cá biển thuộc chi Acanthurus trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1956.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh auranticavus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: aurantia ("nâu cam") và cavus ("lỗ, hốc"), hàm ý đề cập đến vệt màu cam bao quanh ngạnh đuôi của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. auranticavus được phân bố tập trung ở Tây Thái Bình Dương, rải rác ở Trung Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Ở Ấn Độ Dương, A. auranticavus chỉ được biết đến tại bờ biển Mozambique; hai đảo quốc SeychellesMaldives; bãi cạn Rowley, rạn san hô Scottrạn Ashmore (đều thuộc Úc), cũng như ngoài khơi Tây Úc; còn ở Thái Bình Dương, loài cá này xuất hiện phổ biến ở khu vực Đông Nam Á, trải dài về phía đông đến Papua New Guineaquần đảo Solomon, cũng được ghi nhận tại quần đảo MarshallFiji (ghi nhận ở quần đảo Samoa cần được xác minh thêm), phía nam trải dài đến rạn san hô Great Barrier (Úc).[1][3][4]

Việt Nam, A. auranticavus được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[5] đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[6] Phú Yên;[7] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa);[8] Ninh Thuận[9] và ngoài khơi Bình Thuận.[10]

A. auranticavus sống trên các rạn san hô viền bờ và trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 20 m.[3]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở A. auranticavus là 45 cm.[3]. Loài này có một mảnh xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi tạo thành ngạnh sắc, là đặc điểm của cá đuôi gai. Phần rãnh bao quanh ngạnh này ở A. auranticavus có màu cam, một đặc điểm giúp phân biệt chúng với Acanthurus blochii, một loài có vệt vàng ở sau mắt.[11]

Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, màu nâu sẫm với những sọc mảnh gợn sóng ở hai bên thân. Có một vệt đen ở sau mắt; mắt có vòng cam bao quannh con ngươi. Cuống đuôi có dải trắng bao quanh. Vây đuôi lõm sâu, hình lưỡi liềm, có dải xanh lam nhạt ở rìa sau. Vây hậu môn được viền xanh óng ở rìa.[12]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 25–26; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 23–24; Số tia vây ở vây hậu môn: 16–17; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[3]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của A. auranticavus là các loại tảovụn hữu cơ.[1] Cá trưởng thành di chuyển theo đàn, thường bơi lẫn vào đàn của những loài cá đuôi gai khác.[3]

Tuổi thọ lớn nhất được biết đến ở A. auranticavus là 30 năm tuổi.[13]

Đánh bắt

[sửa | sửa mã nguồn]

A. auranticavus được xem là một loài hải sản ở nhiều nơi trong khu vực phân bố của chúng.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d B. Russell; C. Nanola; J. H. Choat; B. Stockwell; J. McIlwain; K. D. Clements; L. A. Rocha; R. Abesamis; R. Myers (2012). Acanthurus auranticavus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T177974A1508352. doi:10.2305/iucn.UK.2012.RLTS.T177974A1508352.en. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ a b c d e Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Acanthurus auranticavus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Acanthurus auranticavus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2022.
  5. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  9. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  10. ^ Mai Xuân Đạt (2019). “Cá rạn san hô trong các bãi ngầm và đảo đá ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 19 (4A): 259–271. doi:10.15625/1859-3097/19/4A/14590. ISSN 1859-3097.[liên kết hỏng]
  11. ^ Joe Shields (biên tập). Acanthurus auranticavus Acanthurus”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  12. ^ Dianne J. Bray. “Ringtail Surgeonfish, Acanthurus auranticavus Randall 1956”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  13. ^ J. H. Choat; D. R. Robertson (2002). “Chapter 3. Age-based studies on coral reef fishes” (PDF). Trong P. F. Sale (biên tập). Coral Reef Fishes. tr. 57–80. doi:10.1016/B978-012615185-5/50005-0.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)