Trận Warburg
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. |
Trận Warburg | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Bảy Năm | |||||||
Tái hiện lịch sử của Trận Warburg đã chiến đấu vào ngày 31 tháng 7 năm 1760 | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Hanover Vương quốc Anh Brunswick-Wolfenbüttel Hesse-Kassel (hoặc Hesse-cassel) | Pháp | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Hoàng tử Ferdinand của Brunswick Hoàng tử của Hesse-Kassel (hoặc Hesse-Cassel) | Louis Nicolas Victor de Félix d'Ollières | ||||||
Lực lượng | |||||||
62.000 (16.000 tham chiến) | 130.000 (20.000 tham tham chiến) | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
1.200 người chết hoặc bị thương |
1.500 người chết hoặc bị thương[1] 2.000 quân bị bắt làm tù binh 12 khẩu pháo bị mất |
Trận Warburg diễn ra vào ngày 31 tháng 7 năm 1760 là một phần của Chiến tranh Bảy năm. Trận chiến là một mốc chiến thắng của Hanover và Anh chống lại người Pháp. Tướng John Manners, Hầu tước Granby đã dẫn đầu đội kỵ binh Anh xung phong tấn công quân Pháp, bản thân thì bị mất đị chiếc mũ cùng với bộ tóc giả mà ông đội trên đầu. Người Pháp có 1.500 binh sĩ thương vong hoặc mất tích; khoảng 2.000 lính khác bị bắt làm tù binh và bị mất 10 khẩu pháo.
Có mặt trong đội hình tiên phong của Anh là từ trái sang phải lần lượt là các trung đoàn Khinh kị binh Cận vệ (Dragoon guards) số 2 (the Queen's Bays) và số 3 của Lữ đoàn Cận vệ Hoàng gia số 1 (the Blues) cùng với trung đoàn kị binh số 6 và số 7 ở một lữ đoàn khác ngay bên; sau họ là các là các Trung đoàn Kị binh Scotland (the Greys) cùng với các trung đoàn khinh kị binh Inniskilling số 6, trung đoàn khinh kị binh số 10 và số 11.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Daniel Mackinnon, Origin and services of the Coldstream Guards, London 1883, Vol.1, p.406. Lieutenant-General F.W.Hamilton, Origin and History of the First or Grenadier Guards, London, 1874, Vol. II. p.175
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]