2
MỤC LỤC
Lời nói đầu
13
Phần 1: Hỏi - đáp về vị trí, vai trò và tiềm năng của
biển, đ o Vi t Nam
17
1. Vị trí, điều kiện tự nhiên c a Biển Đông?
18
2. Vai trò c a Biển Đông đối với thế giới và Việt Nam?
19
3. Đặc điểm địa lỦ cơ bản c a các vùng biển Việt Nam?
23
4. Việt Nam có bao nhiêu tỉnh, thành phố có biển?
Hãy kể tên các tỉnh, thành phố đó.
25
5. Vài nét cơ bản về các khu vực biển, hải đảo c a Việt
Nam trên Biển Đông?
26
6. Những nét chính về vị trí địa lỦ và điều kiện tự nhiên
c a quần đảo Hoàng Sa?
28
7. Quần đảo Hoàng Sa bao gồm những nhóm đảo
chính nào?
30
8. Những nét chính về vị trí địa lỦ và điều kiện tự nhiên
c a quần đảo Trường Sa?
35
9. Những nhóm đảo chính c a quần đảo Trường Sa?
37
10. Thế nào được gọi là vịnh? Tên các vịnh lớn c a
Việt Nam?
48
11. Khái quát về các nguồn tài nguyên quan trọng ở các
vùng biển c a Việt Nam trong Biển Đông?
49
3
12. Tiềm năng dầu khí ở vùng biển Việt Nam?
52
13. Tiềm năng, trữ lượng hải sản c a vùng biển
Việt Nam?
55
14. Tiềm năng về năng lượng biển c a Việt Nam?
57
15. Tiềm năng băng cháy c a vùng biển Việt Nam?
58
16. Những bãi biển du lịch nổi tiếng Việt Nam?
60
17. Hãy kể tên những lễ hội đặc sắc c a các địa phương
ven biển Việt Nam?
61
18. Hãy chứng minh vai trò quan trọng c a môi trường
biển đối với đời sống con người?
63
19. Những yếu tố ch yếu gây ô nhiễm môi trường biển?
64
20. Các biện pháp bảo vệ môi trường biển?
66
Phần 2: Hỏi - Đáp về các vấn đề liên quan đến các
quyền và b o v các quyền của Vi t Nam
trong Biển Đông
69
21. Trong Biển Đông hiện nay đang tồn tại những loại
tranh chấp gì?
70
22. Nguyên tắc pháp lỦ về quyền th đắc lãnh thổ trong
luật pháp và thực tiễn quốc tế?
71
23. Thực trạng tranh chấp ch quyền lãnh thổ và vị trí
chiếm đóng c a các bên tranh chấp đối với quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc ch quyền
c a Việt Nam?
74
24. Phương thức th đắc lãnh thổ c a Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là gì?
77
4
25. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và
thực thi ch quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa như thế nào?
78
26. Với tư cách là đại diện c a nhà nước Việt Nam về đối
ngoại, Cộng hòa Pháp đã tiếp t c thực thi ch quyền
c a Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa như thế nào?
81
27. Việc thực thi ch quyền c a Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1945 1975?
84
28. Việt Nam thực thi ch quyền c a Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1975
đến nay?
89
29. Vài nét khái quát về Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ
thư - một trong những tác phẩm đầu tiên đề cập đến
ch quyền c a Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa?
92
30. Trường Sa và Hoàng Sa được ghi chép khá kỹ trong
một số thư tịch cổ và được thể hiện rõ ràng trong các
châu bản (văn bản quản lỦ hành chính nhà nước c a
triều đình nhà Nguyễn). Kể tên một số bộ sách và các
châu bản tiêu biểu?
94
31. Vài nét về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải?
96
32. Vài nét về Lễ Khao lề thế lính. Nghi lễ này được tổ
chức ở đâu? Trong thời gian nào? ụ nghĩa cùa nghi
lễ này?
99
5
33. Vài nét về một số bản đồ cổ tiêu biểu thể hiện Hoàng
Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ c a Việt Nam?
101
34. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ra
đời như thế nào?
107
35. Những nội dung chính c a Công ước Liên Hợp quốc
về Luật Biển năm 1982?
108
36. Vai trò và Ủ nghĩa c a Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982?
109
37. Khái niệm ch quyền, quyền ch quyền và quyền tài
phán được hiểu như thế nào trong Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982?
110
38. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy
định các vùng biển nào thuộc ch quyền c a các
quốc gia ven biển?
111
39. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy
định các vùng biển nào thuộc quyền ch quyền và
quyền tài phán c a các quốc gia ven biển?
115
40. Khái niệm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải?
Đặc điểm đường cơ sở c a Việt Nam?
118
41. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982, Việt Nam có những vùng biển nào?
121
42. Quy định về nội th y c a Việt Nam?
121
43. Tàu thuyền nước ngoài hoạt động trong nội th y
Việt Nam phải chấp hành những quy định gì?
122
44. Hãy cho biết rõ hơn phạm vi và chế độ pháp lỦ c a
lãnh hải theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982?
122
6
45. Chiều rộng và chế độ pháp lỦ c a lãnh hải Việt Nam?
123
46. Quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải được hiểu
như thế nào? Quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải Việt Nam?
124
47. Phạm vi và chế độ pháp lỦ c a vùng tiếp giáp lãnh hải
theo Công ước c a Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 và Luật Biển Việt Nam 2012?
127
48. Phạm vi và chế độ pháp lỦ c a vùng đặc quyền kinh
tế theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 và Luật Biển Việt Nam 2012?
128
49. Phạm vi và chế độ pháp lỦ c a thềm l c địa theo
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và
Luật Biển Việt Nam 2012?
131
50. Vì sao Việt Nam nộp hai báo cáo quốc gia xác định
ranh giới ngoài thềm l c địa Việt Nam vượt quá 200
hải lỦ lên y ban Ranh giới thềm l c địa c a Liên
Hợp quốc năm 2009?
134
51. Khái niệm đảo và các bãi cạn nửa nổi nửa chìm được
hiểu như thế nào? Chế độ pháp lỦ c a chúng?
138
52. Khái niệm Quốc gia quần đảo, quần đảo theo quy
định c a Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982?
139
53. Các nhà giàn DK1 c a Việt Nam đã được xây dựng
trên các bãi ngầm nằm trong vùng đặc quyền về kinh
tế và trên thềm l c địa Việt Nam có theo đúng quy
định c a Công ước Luật biển 1982 không? Phạm vi
và quy chế bảo vệ, quản lỦ các công trình này như
thế nào?
140
7
54. Khái niệm và chế độ pháp lý vùng biển quốc tế
(Biển cả)?
142
55. Quy chế pháp lỦ c a Vùng theo Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982?
143
56. Các quốc gia không có biển được hưởng những
quyền gì trên biển?
145
57. Ch quyền quốc gia trên biển giảm dần từ đất liền
hướng ra biển như thế nào?
146
58. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982,
các tranh chấp trên biển được giải quyết theo các cơ
chế nào?
149
59. Các quyền tự do trên biển cả (vùng biển quốc tế)?
150
60. Phân định biển được hiểu như thế nào? Các nguyên
tắc cơ bản trong phân định biển? Lập trường c a Việt
Nam về vấn đề phân định biển?
151
61. Vài nét về yêu sách “đường lưỡi bò” (hay “đường 9
khúc đứt đoạn”) c a Trung Quốc?
152
62. Một số nhận xét về “đường lưỡi bò” (hay “đường 9
khúc đứt đoạn”) nhìn từ công pháp quốc tế?
156
63. Quan điểm c a các nước trong, ngoài khu vực và các
học giả quốc tế về “đường lưỡi bò” (hay “đường 9
khúc đứt đoạn”) c a Trung Quốc?
158
64. Lập trường c a Việt Nam trong giải quyết các vấn đề
tranh chấp trên Biển Đông?
159
65. Hãy cho biết rõ hơn về khái niệm “giải quyết tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình”?
161
8
66. Những Thỏa thuận và Hiệp định ch yếu về phân
định và hợp tác trên biển mà Việt Nam đã đàm phán,
kỦ kết với các nước láng giềng? Còn những vấn đề gì
trên biển Việt Nam cần tiếp t c giải quyết với các
nước liên quan?
162
67. Những nội dung chính c a Thỏa thuận về những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
giữa Chính ph nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và
Chính ph nước CHND Trung Hoa đã được kỦ ngày
11/10/2011?
167
68. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay có
những văn bản quy phạm pháp luật cơ bản nào liên
quan đến biển đảo?
171
69. Quá trình xây dựng và Ủ nghĩa c a việc ban hành
Luật Biển Việt Nam? Phạm vi điều chỉnh và tóm tắt
Luật Biển Việt Nam?
172
70. Nội dung cơ bản c a Luật Biên giới Quốc gia c a
Việt Nam?
175
71. Luật Biên giới Quốc gia có những điều, khoản nào
liên quan đến lĩnh vực biển, đảo?
176
72. Luật Th y sản quy định về việc bảo vệ th y, hải sản
như thế nào?
178
73. Luật Dầu khí Việt Nam quy định về việc bảo vệ, khai
thác nguồn tài nguyên dầu khí Việt Nam như thế nào?
180
74. Quá trình hình thành Tuyên bố về cách ứng xử c a
các bên trên Biển Đông (DOC)?
181
9
75. Những nội dung cơ bản c a Tuyên bố về cách ứng xử
c a các bên trên Biển Đông (DOC)?
182
76. Tuyên bố về cách ứng xử c a các bên trên Biển Đông
2002 (DOC) và Quy tắc hướng dẫn triển khai DOC
đã được thông qua tại Cuộc họp SOM ASEAN-Trung
Quốc ngày 20/7/2011 tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a có vai
trò, Ủ nghĩa như thế nào?
184
Phần 3: Hỏi - đáp về xây dựng và phát triển các lĩnh
vực liên quan đến biển, đ o Vi t Nam
187
77. Quan điểm chỉ đạo c a Đảng ta trong Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020?
188
78. M c tiêu cơ bản c a Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 theo Nghị quyết
Trung ương 4 (Khóa X)?
189
79. Những nhiệm v và giải pháp mà Đảng và Nhà nước
Việt Nam xác định nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
biển?
190
80. Một số thành tựu c a các lĩnh vực kinh tế biển ch
yếu c a Việt Nam?
193
81. Ngành dầu khí có vai trò quan trọng như thế nào đối
với nền kinh tế nước ta hiện nay?
198
82. Thực trạng ngành khai thác khoáng sản trên thềm l c
địa (ngoài dầu khí) ở Việt Nam?
199
83. Tiềm năng và vai trò c a ngành du lịch biển đối với
kinh tế Việt Nam hiện nay?
201
10
84. Các loại hình du lịch biển ở Việt Nam?
202
85. Năng lực và những khó khăn trong công tác tìm kiếm
cứu nạn, cứu hộ trên biển ở Việt Nam hiện nay như
thế nào?
203
86. Năng lực và những khó khăn trong công tác dự báo
thời tiết trên biển ở nước ta hiện nay?
206
87. Thế nào là vi phạm về an ninh, trật tự, an toàn
trên biển?
209
88. Những quy định ngư dân phải tuân th khi tham gia
đánh bắt th y sản ở những vùng biển chồng lấn?
210
89. Những thách thức và hạn chế trong phát triển kinh tế
biển c a Việt Nam?
211
90. Hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học biển ở Việt
Nam hiện nay?
215
91. Tiềm năng và thực trạng hệ thống cảng biển c a nước
ta như thế nào?
218
92. Vài nét về hệ thống cảnh báo sóng thần c a Việt Nam?
222
93. Chức năng và nhiệm v ch yếu c a lực lượng Hải
quân Nhân dân Việt Nam?
224
94. Chức năng và nhiệm v chính c a lực lượng Bộ đội
biên phòng Việt Nam trên biển?
225
95. Chức năng, quyền hạn và nhiệm v chính c a lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam?
228
11
96. Nhiệm v và quyền hạn c a lực lượng kiểm ngư
Việt Nam?
232
97. Việt Nam có những hoạt động phối hợp chung nào
với các quốc gia trong khu vực nhằm bảo vệ trật tự,
an ninh trên Biển Đông?
233
98. Bạn hiểu như thế nào về Ngày đại dương Thế giới
(Ngày 8 tháng 6)?
235
99. Vài nét về Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ ngày
01 đến ngày 07 tháng 6 hàng năm)?
237
100. Học sinh, sinh viên Việt Nam cần có Ủ thức và
trách nhiệm như thế nào trong sự nghiệp bảo vệ ch
quyền biển, đảo c a ta trên Biển Đông?
Phụ lục: Tìm hiểu một số ho t động của thanh niên
hướng về biển đ o quê hương
12
241
243
Biển Việt Nam là một bộ phận không tách rời và
chiếm vị trí trọng yếuàt o gà hàđồ Biể àĐ gà- một
khu vự à địa lý giàu tài nguyên thiên nhiên, nhưng
ũ gà hứaà đựng nhiều mâu thuẫn lợi ích liên quan
đến các tranh chấp chủ quyền biể ,àđảo phứ tạp và
kéo dài trong lịch sử.
Lời
nói
đầu
Biể à gắ à à vớià aoà thếà hệà gườià Việt,à l à kh gà
gia àsi hàtồ àv àph tàt iể à ủaàd àtộ àta,àl à hỗàdựaà
si hà kếà hoà h gà t iệuà gườià d à Việtà Na à từà ưaà
đế à a .àT o gàv gà iể à ạ ,à ỗiàh àđảoàkh gà
hỉà hưà hữ gàthỏià v gà a h à à
àl à ộtà ộtà
ố à hủà u ề à tựà hiê à ủaà uố à gia.à Biể à thiê gà
liê gàl àvậ ,àv àthếà ảoàvệàv àph tàt iể àv àsựàt ườ gà
tồ à ủaà iể ,à đảoà uêà hươ gà l à sựà ghiệpà ủaà to à
Đả g,àto àQu àv àto àD àta.à
Đểà ảoàvệà hủà u ề à iể ,àđảoà ủaàTổà uố ,àt ướ à
tiê ,àtuổiàt ẻà ướ àtaàphảiàhiểuàthấuàđ oà àvấ àđềà
vềàt ià gu ê àv à iàt ườ gà iể ;àvềàkh gàgia à iể ,à
đảoà ủaàđấtà ướ ;àvềà hủà u ề ,à u ề à hủà u ề àv à
u ề àt ià ph à uố à giaà đốià vớià à v gà iể ,à đảo;à
vềà hủà t ươ g,à h hà s hà v à ph pà luậtà ủaà Đả gà v à
Nh à ướ à taà đốià vớià hữ gà vấ à đềà iể ,à đảoà ià
hu gà v à Biể à Đ gà ià iê g.àVớià hữ gà hậ àthứ à
đ gà đắ ,à đầ à đủà v à s uà sắ ,à lớpàt ẻà ViệtàNa àh à
a àsẽàl à hữ gàsứàgiảàtạoà ê àsựàkếtà ốiàt o gàto à
à hội,à th à đẩ à hữ gà h hà độ gà thiếtà thự à v oà
t o gà ộ gàđồ g,àv à iể ,àđảoà uêàhươ g.
13
Đạiàdươ gàv à iể àl àdiàsả à ủaàtươ gàlai,à hoà ê à
kh gà phảià gẫuà hiê à Th gà điệpà Ng à đạià dươ gà
thếàgiớià ă à
àđượ àLiê àHợpà uố à họ àl :àà
Tuổiàt ẻà- guồ àsứ à ạ hàđểà ảoàvệàđạiàdươ g! .
Lời
nói
đầu
Nhậ àthứ àđượ àsứà ệ hàv àt hàtiê àpho gà ủaà
tuổiàt ẻàt o gàsựà ghiệpà àdự gàv à ảoàvệàTổà uố à
t o gàhộià hậpàv àph tàt iể àđấtà ướ ,àBa àTu ê àgi oà
T u gàươ gàphốiàhợpàvớià ột sốà hu ê àgiaàđạiàdiệ à
hoà ộtà sốà ơà ua à à liê à ua à tổà hứ à iê à soạ à
uố às hàà
u Hỏi - Đ p về iể , đảo dành cho
tuổi trẻ Việt Na . Cấuàt à uố às hàgồ à àphầ :
à Hỏià - Đ pà vềà vịà t ,à vaià t à v à tiề à ă gà ủaà
iể ,àđảoàViệtàNa .
(2) Hỏià- Đ pàvềà àvấ àđềàliê à ua àđế à à u ề
v à ảoàvệà à u ề à ủaàViệtàNa àt o gàBiể àĐ g.
à Hỏià - Đ pà vềà
à dự gà v à ph tà t iể à
vự àliê à ua àđế à iể ,àđảoàViệtàNa .
à lĩ hà
Cuố às hàl à ẩ à a gà ầ àthiết,àgi pà hoàthếàhệà
t ẻàViệtàNa à ià hu g,àhọ àsi hàv àsi hàviê àViệtàNa
ià iê gà à ià h àtổ gà ua àvềà iể ,àđảoàViệtàNa ,
từ gà ướ à
gà aoà hậ à thứ à về vịà t ,à vaià t à ủaà
iể ,àđảoàđốiàvớiàsựà ghiệpà àdự gàv à ảoàvệàTổà uố
hằ à thự à hiệ à lờià dạ à ủaà Chủà tị hà Hồà Ch à Mi h:à
Các vua Hùng đã c c ng dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước .àTuổiàt ẻàViệtàNa à ầ à
thự àhiệ àtốtàvaiàt ,àt hà hiệ à ủaà
gàd à iể ;à
hă gàh iàđiàđầuàt o gàhọ àtập,àđẩ à ạ hà ghiê à ứuà
14
Lời
nói
đầu
khoaàhọ àvềàlĩ hàvự à iể à ga g tầ àvớiàt hàđộà ủaà
à ướ àtiê àtiế àt o gàkhuàvự àv àt ê àthếàgiới;àg pà
phầ à đưaà ướ à taà t ởà th hà uố à giaà ạ hà vềà iể ,à
gi uàtừà iể .
Ban Tuyên gi oàT u gàươ gà i àt àt ọ gà ả àơ
sựà phốià hợpà hiệuà uảà ủaà
à hu ê à gia,à
à h
khoaà họ ,à à a ,à g h,à tổà hứ à đểà à dự gà ê
uố às hà
.àT o gàlầ à uấtà ả àđầu,à uố às hà
thểà à hữ gàhạ à hế,àBa àBiê àsoạ à ấtà o gà hậ
đượ à hữ gà ýà kiế à đ gà g pà ủaà độ à giảà đểà uố
s hàđượ àho àthiệ àhơ àt o gàlầ à uấtà ả àsau!
Xi àt
àt ọ gàgiớiàthiệuà
à
à
à
à
à
à
gà ạ àđọ !
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
15
16
Phần một
HáI - §¸P VÒ VÞ TRÝ,
VAI TRß Vµ TIÒM N¡NG
CñA BIÓN, §¶O VIÖT NAM
17
1
Vị trí, điều kiện tự nhiên của
Biển Đông?
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu
km2, trải rộng từ 3o vĩ Bắc đến 26o vĩ Bắc và từ 100o kinh Đông đến
121o kinh Đông; là một trong những biển lớn nhất trên thế giới với
90% chu vi được bao bọc bởi đất liền. Có 9 nước tiếp giáp với Biển
Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xia, Bru-nây,
Ma-lai-xia, Xin-ga-po, Thái Lan, Cam-pu-chia và một vùng lãnh
thổ là Đài Loan. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực
tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu dân các nước này. Biển Đông
không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong
khu vực mà còn của cả Châu Á - Thái Bình Dương và Châu Mỹ.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên
nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các
nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng
sản, du lịch, đồng thời đây cũng là khu vực đang chịu sức ép nhiều
về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí
lớn nhất thế giới. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự
trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả
năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc,
trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ
18
lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với
trữ lượng này, sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu
tấn/năm duy trì liên tục trong vòng 15 - 20 năm tới(1).
Ngoài ra, theo các chuyên gia, khu vực Biển Đông còn chứa
đựng lượng lớn tài nguyên khí đốt đóng băng (băng cháy). Trữ
lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng
dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí
trong tương lai.
2
Biển
Vai trò của Biển Đông đối với thế
giới và Việt Nam?
Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết
mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu
Á, Trung Đông - Châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải
quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng 150 200 tàu các loại qua lại Biển Đông. Nhiều nước và vùng lãnh thổ ở
khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào tuyến
đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Xin-ga-po và
cả Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới
thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua Biển
Đông. Biển Đông có những eo biển quan trọng như eo biển Ma-lắc-ca,
(1)
Theo http://nghiencuubiendong.vn
19
eo biển Đài Loan là những eo biển khá nhộn nhịp trên thế giới. Do
đó, Biển Đông có vai trò hết sức quan trọng đối với tất cả các nước
trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh quốc phòng, giao thông
hàng hải và kinh tế.
Xét về an ninh, quốc phòng, Biển Đông đóng vai trò quan
trọng là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước. Các đảo và
quần đảo trên Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển
qua lại Biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan
trọng đối với Việt Nam.
Nước ta giáp với Biển Đông ở ba phía Đông, Nam và Tây
Nam. Các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam là một phần Biển
Đông trải dọc theo bờ biển dài khoảng 3.260 km, từ Quảng Ninh
đến Kiên Giang, với nhiều bãi biển đẹp như Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh, Vũng Tàu... Như vậy, cứ 100 km2 lãnh
thổ đất liền có 1 km bờ biển, tỷ lệ này cao gấp 6 lần tỷ trung bình
của thế giới (600 km2 đất liền có 1 km bờ biển). Không một nơi nào
trên lục địa của Việt Nam lại cách xa bờ biển hơn 500 km.
Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn theo Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; có hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa nằm giữa Biển Đông và hàng nghìn đảo lớn, nhỏ, gần
và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ các
vùng biển và thềm lục địa.
20
Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không chỉ
cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay,
Biển Đông còn tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế và là
cửa ngõ để Việt Nam có quan hệ trực tiếp với các vùng miền của
đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao
đổi và hội nhập của nhiều nền văn hoá.
Về kinh tế, Biển Đông tạo điều kiện để Việt Nam phát triển
những ngành kinh tế mũi nhọn như thủy sản, dầu khí, giao thông
hàng hải, đóng tàu, du lịch…
Ngoài ra, ven biển Việt Nam còn chứa đựng tiềm năng to lớn
về quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm… trong
đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển
Đông, rất thuận lợi cho việc đặt các trạm thông tin, xây dựng các
trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền... phục vụ cho
tuyến đường hàng hải trên Biển Đông.
21
Bản đồ Việt Nam và Biển Đông
22
3
Đặc điểm địa lý cơ bản của các vùng
biển Việt Nam?
Việt Nam là một quốc gia biển lớn nằm ven bờ tây Biển
Đông. Trong Biển Đông, liên quan tới Việt Nam có hai vịnh (gulf)
lớn là vịnh Bắc Bộ ở phía tây bắc, rộng khoảng 130.000 km2 và
vịnh Thái Lan ở phía tây nam, diện tích khoảng 293.000 km2. Đây
là biển duy nhất nối liền hai đại dương - Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương. Biển Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ
gió mùa thịnh hành hướng Đông Bắc và Đông Nam. Vì thế, biển
Việt Nam gánh chịu nhiều rủi ro thiên tai và sự cố môi trường biển
trên Biển Đông, đặc biệt từ các loại dầu tràn và dầu thải không rõ
nguồn gốc đưa vào vùng bờ biển nước ta.
Chế độ khí hậu vùng biển Việt Nam khác nhau ở ba miền khí
hậu chủ yếu: (i) Miền khí hậu phía bắc từ đèo Hải Vân trở ra, có
chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh, (ii) Miền khí
hậu phía nam từ Đà Nẵng vào tới các tỉnh ven biển đồng bằng sông
Cửu Long, có chế độ khí hậu gió mùa nhiệt đới cận xích đạo với 2
mùa mưa và khô rõ rệt, nhiệt độ luôn cao, (iii) Miền khí hậu Biển
Đông có chế độ khí hậu mang tính chất gió mùa nhiệt đới biển.
Vùng Biển Đông nói chung và biển Việt Nam nói riêng là khu vực
chịu nhiều thiên tai bão, tố, biến đổi khí hậu và có nguy cơ sóng
thần. Trung bình hàng năm có khoảng 8 cơn bão đổ bộ vào vùng
23
biển và nội địa Việt Nam và dự báo sóng thần có thể sẽ xuất phát từ
các hẻm vực sâu ven bờ tây Phi-lip-pin (Palawan) và chỉ sau 02 giờ
sẽ tiếp cận đến bờ biển Nha Trang.
Chế độ hải văn ven bờ cũng biến tính rõ. Chế độ dòng chảy
bề mặt và sóng biến đổi theo mùa gió trong năm, cả về hướng chảy
và cường độ. Các đặc trưng khí hậu - hải văn nói trên góp phần
hình thành các vùng địa lý - sinh thái khác nhau, kéo theo thế mạnh
tài nguyên sinh vật và tiềm năng phát triển khác nhau.
Khu vực biển nông thuộc thềm lục địa địa lý (đến độ sâu 200 m)
chiếm toàn bộ diện tích vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, vùng biển
trước châu thổ sông Cửu Long và thắt hẹp lại ở miền Trung nước ta.
Biển Việt Nam là một bộ phận quan trọng của Biển Đông,
bao gồm vùng nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa (theo quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982).
Hình thế phần đất liền của Việt Nam hẹp chiều ngang (không
có nơi nào cách biển trên 500 km) với đường bờ biển dài trên 3.260 km
(không kể bờ các đảo) chạy theo hướng kinh tuyến, kéo từ Móng Cái
(Quảng Ninh) ở phía đông bắc xuống tới Hà Tiên (Kiên Giang) ở
phía tây nam. Bờ biển Việt Nam khúc khuỷu, nhiều eo, vụng,
vũng/vịnh ven bờ và cứ 20 km chiều dài đường bờ biển lại bắt gặp
một cửa sông lớn với tổng số khoảng 114 cửa sông đổ ra biển, chủ
yếu từ phía lục địa Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có hai đồng bằng
châu thổ rộng lớn và phì nhiêu ven biển là đồng bằng châu thổ sông
24
Hồng ở phía bắc và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long ở phía
nam. Lượng nước và phù sa lớn nhất đổ vào Biển Đông hàng năm
chính là từ các hệ thống sông của hai đồng bằng này. Bên cạnh việc
bổ sung nguồn dinh dưỡng cho biển Việt Nam và Biển Đông, các
hệ thống sông này cũng đổ ra biển không ít chất gây ô nhiễm môi
trường biển và vùng cửa sông ven biển nước ta.
4
Việt Nam có bao nhiêu tỉnh, thành
phố có biển? Hãy kể tên các tỉnh,
thành phố đó.
Về mặt hành chính, hiện nay ở nước ta có 63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, trong đó có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có biển, với 125 huyện ven biển và 12 huyện đảo. Đây
là những đơn vị hành chính đóng vai trò quan trọng đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc.
Từ bắc vào nam, 28 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương
có biển là các tỉnh và thành phố: Quảng Ninh, Tp. Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Tp. Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến
Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
25
5
Vài nét cơ bản về các khu vực biển,
hải đảo của Việt Nam trên Biển Đông?
Biển, hải đảo nước ta nằm trong Biển Đông bao gồm nhiều
khu vực khác nhau, nhưng nổi bật và có những đặc điểm cần chú ý
hơn là Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan, hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và một số đảo, quần đảo khác.
1. Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ nằm về phía tây bắc Biển Đông, được bao
bọc bởi bờ biển và hải đảo của miền Bắc Việt Nam ở phía tây; bởi
lục địa Trung Quốc ở phía bắc; bởi bán đảo Lôi Châu và đảo Hải
Nam ở phía Đông. Vịnh Bắc Bộ trải rộng từ khoảng kinh tuyến
105036’ Đông đến khoảng kinh tuyến 109055’ Đông, trải dài từ vĩ
tuyến 21055’ Bắc đến vĩ tuyến 17010’ Bắc. Diện tích khoảng
126.250 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp
nhất khoảng 220 km.
Vịnh Bắc Bộ là vịnh tương đối nông, độ sâu trung bình
khoảng từ 40 - 50 m, nơi sâu nhất khoảng 100 m; đáy biển tương
đối bằng phẳng, độ dốc nhỏ. Thềm lục địa thuộc phần kéo dài tự
nhiên của lục địa Việt Nam ra biển khá rộng, độ dốc thoải và có
một lòng máng sâu trên 70 m gần đảo Hải Nam của Trung Quốc.
Bờ vịnh khúc khuỷu và ven bờ có nhiều đảo. Phần vịnh phía Việt
Nam có hàng ngàn đảo lớn, nhỏ, trong đó đảo Bạch Long Vĩ diện
tích 2,5 km2 cách đất liền Việt Nam 110 km, cách đảo Hải Nam của
26
Trung Quốc 130 km. Vịnh Bắc Bộ có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ
lượng cá của Việt Nam khoảng 44 vạn tấn) và tiềm năng dầu khí.
Vịnh Bắc Bộ có hai cửa thông với bên ngoài: Cửa phía Nam ra
trung tâm Biển Đông, nơi hẹp nhất rộng khoảng 240 km, cửa phía
Đông qua eo biển Quỳnh Châu (nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo
Hải Nam) ra phía bắc Biển Đông, nơi hẹp nhất khoảng 18 km.
2. Vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam của Biển Đông,
được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam, Cam-pu-chia, Thái Lan,
Ma-lai-xi-a.
Vịnh Thái Lan có diện tích khoảng 293.000 km2, chu vi
khoảng 2.300 km, chiều dài vịnh khoảng 628 km. Đây là một vịnh
nông, nơi sâu nhất chỉ khoảng 80 m. Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất
của Việt Nam, diện tích 567 km2.
Vịnh Thái Lan có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng cá của
Việt Nam khoảng 51 vạn tấn) và có tiềm năng dầu khí lớn mà hiện
nay các nước liên quan đang tiến hành thăm dò, khai thác.
3. Các đảo và quần đảo
Vùng biển ven bờ Việt Nam có khoảng 2.773 hòn đảo lớn,
nhỏ, chủ yếu nằm ở Vịnh Bắc Bộ, số còn lại phân bố ở khu vực
biển Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nam.
Ngoài ra, có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông.
Căn cứ vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý, kinh tế, dân
cư người ta có thể chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:
27
- Hệ thống đảo tiền tiêu, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ
kiểm soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu,
thuyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đó là các đảo, quần đảo:
Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo,
Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ...
- Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội. Đó là các đảo như: Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn,
Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc…
- Các đảo ven bờ gần đất liền, có điều kiện phát triển nghề cá,
du lịch và cũng là căn cứ để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển
và bờ biển nước ta. Đó là các đảo thuộc huyện đảo Cát Bà (Hải
Phòng), huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo Phú Quý
(Bình Thuận), huyện đảo Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), huyện đảo
Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) v.v.
6
Những nét chính về vị trí địa lý và
điều kiện tự nhiên của quần đảo
Hoàng Sa?
Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô, phân bố rải rác
trong phạm vi từ khoảng kinh tuyến 1110 Đông đến 1130 Đông; từ
vĩ tuyến 15045’ Bắc đến 17015’ Bắc, ngang với Huế và Đà Nẵng,
phía ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, ở khu vực phía Bắc Biển Đông.
28
Quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 37 đảo, đá, bãi cạn, chia làm
hai nhóm: nhóm phía Đông có tên là nhóm An Vĩnh, gồm khoảng
12 đảo, đá, bãi cạn, trong đó có hai đảo lớn là Phú Lâm và Linh
Côn, mỗi đảo rộng khoảng 1,5 km2; nhóm phía Tây gồm nhiều đảo
xếp thành hình vòng cung nên còn gọi là nhóm Lưỡi Liềm, trong đó
có các đảo Hoàng Sa (diện tích gần 1 km2), Quang Ảnh, Hữu Nhật,
Quang Hòa, Duy Mộng, Chim Yến, Tri Tôn...
Quần đảo Hoàng Sa là một thế giới san hô với hơn 100 loài
đã tạo thành một phần của vòng cung san hô ngầm dọc bờ biển
Đông Nam của lục địa châu Á.
Hình thái địa hình các đảo trong quần đảo Hoàng Sa tương
đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô
vùng nhiệt đới. Đa số các đảo có độ cao dưới 10m, và có diện tích
nhỏ hẹp dưới 1 km2. Tổng diện tích phần nổi của tất cả các đảo
thuộc quần đảo Hoàng Sa khoảng 10 km2. Ngoài các đảo, còn có
các cồn san hô, vành đai san hô bao bọc một vùng nước tạo thành
một đầm nước giữa biển khơi, có cồn dài tới 30 km, rộng 10 km
như cồn Cát Vàng.
Trên đảo Hoàng Sa còn có một trạm khí tượng được chính
quyền bảo hộ Pháp xây dựng và hoạt động từ năm 1938, đến năm
1947 được Tổ chức Khí tượng thế giới (WVO) công nhận và đặt số
hiệu 48860 trong mạng lưới khí tượng quốc tế. Nhiệt độ không khí
ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa có giá trị thấp nhất 220 - 240C
trong tháng 1, tăng dần đạt cực đại 28,50 - 290C trong tháng 6, 7 và
giảm từ từ tới 250C vào tháng 12. Chế độ gió mùa vùng quần đảo
Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình lục địa
Việt Nam và Trung Quốc. Lượng mưa trung bình hàng năm là
29
1.200 - 1.600 mm, thấp hơn nhiều so với lượng mưa ở quần đảo
Trường Sa và các vùng khác trên đất liền. Mưa chủ yếu tập trung
vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), lượng mưa trung bình hàng
tháng 100 - 200 mm, đạt 200 - 400 mm trong tháng 10. Lượng mưa
trung bình trong mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4) 200 - 300 mm
với lượng mưa hàng tháng 20 - 25 mm (tháng 1, 2, 3) và đạt đến
50 mm trong tháng 12 và tháng 4. Độ ẩm tương đối trung bình ở
Hoàng Sa là 80 - 85% và hầu như không bị biến động nhiều theo mùa.
Thảm thực vật của quần đảo Hoàng Sa rất đa dạng. Có đảo cây
cối um tùm nhưng có đảo chỉ có các cây nhỏ và cỏ dại. Thực vật
phần lớn thuộc các loài có nguồn gốc ở miền duyên hải Việt Nam.
Hải sản ở quần đảo Hoàng Sa có nhiều loài quý như: tôm
hùm, hải sâm, đồi mồi, vích, ốc tai voi,... và loại rau câu quý hiếm,
rất có giá trị trên thị trường quốc tế.
7
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm những
nhóm đảo chính nào?
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai cụm đảo chính là nhóm Lưỡi
Liềm ở phía tây và nhóm An Vĩnh ở phía đông.
1. Nhóm Lưỡi Liềm: Nhóm đảo này có hình cánh cung hay
lưỡi liềm, nằm về phía tây quần đảo, gần đất liền Việt Nam, gồm
08 đảo chính là Đá Bắc, Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang
Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn và các bãi ngầm, mỏm đá.
30
- Đảo Đá Bắc có tọa độ địa lý 17006 vĩ độ Bắc và 111030,8
kinh độ Đông.
- Đảo Hoàng Sa nằm ở tọa độ 16032 vĩ độ Bắc và 111036,7
kinh độ Đông, có hình bầu dục, độ cao khoảng 9m, diện tích khoảng
0,5 km2, dài khoảng 950m, rộng khoảng 650m, có vòng san hô bao
quanh. Tuy không phải là đảo lớn nhất nhưng Hoàng Sa là đảo
chính của quần đảo, có vị trí quân sự quan trọng nhất cho việc phòng
thủ bờ biển Việt Nam. Trên đảo Hoàng Sa từng có bia chủ quyền
của Việt Nam với dòng chữ khắc trên bia: République Française Royaune d’An Nam - Arehipel des Paracels - 1816 - Ile de pattle
1938 (Cộng hòa Pháp - Vương triều An Nam - Quần đảo Hoàng Sa
1816 - đảo Hoàng Sa 1938). Ngoài ra, trên đảo còn có Miếu Bà,
một số ngôi mộ của binh lính ra canh đảo bị chết tại đây.
Đảo Hữu Nhật nằm về phía nam và cách đảo Hoàng Sa 3 hải
lý, ở tọa độ 16030,3 vĩ độ Bắc và 111035,3 kinh độ Đông, dáng đảo
hình tròn, đường kính 800m, độ cao 8m, diện tích 0,6 km2, có vòng
đai san hô bao ngoài, giữa là vùng biển lặng.
- Đảo Duy Mộng nằm về phía đông nam đảo Hữu Nhật và
phía đông bắc đảo Quang Hòa ở tọa độ 16027,6 vĩ độ Bắc và
111044,4 kinh độ Đông, do san hô cấu tạo thành, bãi san hô nằm xa
đảo, nhô lên khỏi mặt nước khoảng 4 m, có hình bầu dục, diện tích
0,5 km2.
- Đảo Quang Hòa nằm ở tọa độ 16026,9 vĩ độ Bắc và
111042,7 kinh độ Đông, do san hô cấu tạo thành, là đảo lớn nhất
trong nhóm đảo Lưỡi Liềm, diện tích gần 0,5 km2, trên đảo có
nhiều cây cối, xung quanh đảo là một bãi san hô màu vàng nhạt,
31
nhô ra rất xa đảo, nối với một số đảo nhỏ khác thành đảo Quang
Hòa Đông và Quang Hòa Tây.
Nằm ở tọa độ 16027 vĩ độ Bắc và 111030,8 kinh độ Đông do
san hô cấu tạo thành, độ cao 6 m. Chung quanh đảo là bờ biển có
nhiều đá ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể thả neo
gần đảo mà phải neo ở ngoài khơi, muốn vào phải sử dụng thuyền
nhỏ. Đảo có hình bầu dục, diện tích khoảng 0,7 km2.
- Đảo Bạch Quy nằm ở tọa độ 16003,5 vĩ độ Bắc và 111046,9
kinh độ Đông, với độ cao 15m thì đây là đảo có độ cao lớn nhất
trên quần đảo Hoàng Sa.
- Đảo Tri Tôn nằm ở tọa độ 15047,2 vĩ độ Bắc và 111011,8
kinh độ Đông, nằm ở gần bờ biển Việt Nam nhất, có nhiều hải sâm,
ba ba. San hô ở đây phát triển mạnh và đa dạng.
Ngoài ra, nhóm Lưỡi Liềm còn có một số đảo nhỏ, mỏm đá và
bãi như: Đảo Ốc Hoa, đảo Ba Ba, đảo Lưỡi Liềm, đá Hải Sâm, đá
Lồi, đá Chim Én, bãi Xà Cừ, bãi Ngự Bình, bãi ngầm Ốc Tai Voi...
2. Nhóm An Vĩnh
Nằm ở phía đông, bao gồm các đảo tương đối lớn của quần
đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông
như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo Bắc,
đảo Nam, đảo Tây, đảo Hòn Đá.
- Đảo Phú Lâm nằm ở tọa độ 16050,2 vĩ độ Bắc và 112020
kinh độ Đông, là đảo quan trọng nhất của cụm đảo An Vĩnh và
quần đảo Hoàng Sa. Đảo có chiều dài 1,7 km, chiều ngang 1,2 km.
32
- Đảo Linh Côn có tọa độ 16040,3 vĩ độ Bắc và 112043,6 kinh
độ Đông, cao khoảng 8,5 m, trên đảo có nước ngọt. Vùng san hô
bao quanh đảo kéo dài về phía Nam đến 15 hải lý.
- Đảo Cây nằm ở tọa độ 16059 vĩ độ Bắc và 112015,9 kinh độ
Đông.
- Đảo Trung (còn gọi là đảo Giữa) nằm ở tọa độ 16057,6 vĩ độ
Bắc và 112019,1 kinh độ Đông.
- Đảo Bắc nằm ở tọa độ 16058 vĩ độ Bắc và 112018,3 kinh độ
Đông.
- Đảo Nam nằm ở tọa độ 16057,0 vĩ độ Bắc và 112019,7 kinh
độ Đông.
- Đảo Đá nằm ở tọa độ 16050,9 vĩ độ Bắc và 112020,5 kinh
độ Đông, diện tích 0,4 km2.
Ngoài ra, nhóm An Vĩnh còn có nhiều mỏm đá, cồn cát và
bãi như: Đá Trương Nghĩa, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, đá Bông Bay,
bãi Bình Sơn, bãi Đèn Pha, bãi Châu Nhai, cồn Cát Tây, cồn Cát
Nam, Hòn Tháp, bãi cạn Gò Nổi, bãi Thủy Tề, bãi Quang Nghĩa.
DANH SÁCH VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
CÁC ĐẢO, ĐÁ, BÃI Ở QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
STT
1
2
3
4
Tên gọi
Đảo Đá Bắc
Đảo Hoàng Sa
Đảo Hữu Nhật
Đảo Duy Mộng
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
0
Kinh độ Đông
17 06,0
111030,8
16032,0
111036,7
16030,3
111035,3
16027,6
111044,4
33
Tên gọi
STT
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
34
Đảo Quang Hòa
Đảo Quang Ảnh
Đảo Bạch Quy
Đảo Tri Tôn
Bãi ngầm Ốc Tai voi
Đảo Ốc Hoa
Đảo Ba Ba
Đảo Lưỡi Liềm
Đá Hải Sâm
Đá Lồi
Đá Chim Én
Bãi Xà Cừ
Bãi Ngự Bình
Đào Phú Lâm
Đảo Linh Côn
Đảo Cây
Đảo Trung
Đảo Bắc
Đảo Nam
Đảo Đá
Đá Trương Nghĩa
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
0
Kinh độ Đông
16 26,9
111042,7
16027,0
111030,8
16003,5
111046,9
15047,2
111011,8
15044,0
112014,1
16034,0
111040,0
16033,8
111041,5
16030,5
111046,2
16028,0
111035,5
16015,0
111041,0
16020,8
112002,6
16034,9
111042,9
16027,5
111039,0
160 50,2
112020,0
16040,3
112043 ,6
16059,0
112015,9
16057,6
112019,1
160 58,0
11201 8,3
160 57,0
1120 19,7
16050,9
112020,5
16058,6
112015,4
Tên gọi
STT
26
27
28
29
Đá Sơn Kỳ
Đá Trà Tây
Đá Bông Bay
Bãi Bình Sơn
30
Bãi Đèn Pha
31
Bãi Châu Nhai
32
Cồn Cát Tây
33
Cồn Cát Nam
34
Hòn Tháp
35
36
37
Bãi cạn Gò Nổi
Bãi Thủy Tề
Bãi Quang Nghĩa
8
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
0
Kinh độ Đông
16 34,6
111041,0
16032,8
111042,8
16002,0
112030,0
16046,6
112013,2
16032,0
111036,9
16019,3
112025,4
16058,9
112012,3
16055,6
112020,5
16034,8
112038,6
16049,7
112053,4
16032,0
112039,9
16019,4
112041,1
Những nét chính về vị trí địa lý và
điều kiện tự nhiên của quần đảo
Trường Sa?
Quần đảo Trường Sa nằm cách quần đảo Hoàng Sa khoảng
200 hải lý về phía Nam, bao gồm hơn 100 đảo, đá, bãi ngầm, bãi
san hô, nằm rải rác trong phạm vi biển, khoảng từ vĩ tuyến 6030’
Bắc đến 12000’ Bắc và khoảng từ kinh tuyến 111030’ Đông đến
35
117020’ Đông. Đảo gần đất liền nhất là đảo Trường Sa cách vịnh
Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 250 hải lý, cách điểm gần nhất của
đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng gần 600 hải lý và cách đảo Đài
Loan khoảng 960 hải lý.
Các đảo của quần đảo Trường Sa thấp hơn các đảo của quần
đảo Hoàng Sa. Độ cao trung bình trên mặt nước khoảng 3 - 5m.
Quần đảo Trường Sa được chia làm tám cụm: Song Tử, Thị Tứ,
Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình
Nguyên. Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao khoảng 4 - 6m lúc thủy
triều xuống); Ba Bình là đảo rộng nhất (0,6 km2). Ngoài ra còn có
nhiều đảo nhỏ và bãi đá ngầm như Sinh Tồn Đông, Chữ Thập,
Châu Viên, Ga Ven, Ken Nan, Đá Lớn, Thuyền Chài. Tổng diện
tích phần nổi của tất cả các đảo, đá, cồn, bãi ở quần đảo Trường Sa
chỉ khoảng 3 km2 nhỏ hơn tổng diện tích của quần đảo Hoàng Sa
(10 km2) nhưng lại trải ra trên một vùng biển rộng gấp hơn nhiều
lần quần đảo Hoàng Sa.
Trên đảo Trường Sa và Song Tử Tây có đài khí tượng ngày
đêm theo dõi và thông báo các số liệu về thời tiết ở vùng biển này
cho mạng lưới quan trắc khí tượng thế giới và trên một số đảo có
đèn biển của Tổng Công ty Bảo đảm hàng hải Việt Nam như đảo
Song Tử Tây, đảo An Bang, đảo Đá Tây.
Trên các đảo có nhiều loại cây xanh như phong ba, phi lao,
bàng vuông và một số loại dây leo cỏ dại. Chất đất trên các đảo của
quần đảo Trường Sa là cát san hô, có lẫn những lớp phân chim lẫn
mùn cây có bề dày khoảng 5 - 10 cm. Một số đảo trong quần đảo
có nước ngầm như đảo Song Tử Tây, đảo Song Tử Đông, đảo
Trường Sa. Nguồn lợi hải sản ở quần đảo Trường Sa rất phong phú,
36
đặc biệt có loại vích là động vật quý hiếm, cá ngừ đại dương có giá
trị kinh tế cao. Không chỉ có trữ lượng tài nguyên khá lớn, đa dạng
mà quần đảo Trường Sa còn có vị trí quân sự chiến lược quan trọng
án ngữ phía Đông Nam nước ta.
Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng
gió, giông bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có
cây. Một số hiện tượng thời tiết cũng diễn biến khác với trong đất
liền. Khí hậu ở quần đảo Trường Sa có thể chia làm hai mùa: mùa
khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 1 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm rất
lớn vào khoảng hơn 2.500 mm. Hiện tượng dông trên vùng biển
quần đảo này rất phổ biến, có thể nói quanh năm, tháng nào cũng
có dông và là nơi thường có bão lớn đi qua, tập trung vào các tháng
mùa mưa.
9
Những nhóm đảo chính của quần
đảo Trường Sa?
Quần đảo Trường Sa được chia thành 8 nhóm: Song Tử, Thị
Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình
Nguyên. Song Tử Tây là đảo cao nhất (khoảng 4 - 6m lúc thủy triều
xuống); Ba Bình là đảo rộng nhất (0,6 km2).
1. Nhóm đảo Song Tử gồm đảo Song Tử Đông, Song Tử Tây,
bãi Đá Bắc, bãi Đá Nam, bãi cạn Đinh Ba, bãi cạn Núi Cầu. Hai
hòn đảo (Song Tử Đông và Song Tử Tây) nằm ở cực Bắc của quần
37
đảo Trường Sa, ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). Trên đảo
có những cây cao trung bình, nhiều phân chim có thể chế biến
thành phân bón, vòng quanh hai đảo này về phía đông và nam
chừng 5 hải lý có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây.
Song Tử Đông có hình dáng hơi tròn, diện tích 12,7 ha, dài
900 m, rộng 250 m, cao độ 3 m, có nhiều bãi cát và san hô xung
quanh, nhiều cây cối. Song Tử Tây hình lưỡi liềm, nhỏ hơn Song
Tử Đông, dài 700 m, rộng 300 m, có nước ngọt, có một vườn dừa
và nhiều cây nhỏ. Có tháp ra-đa thời Việt Nam Cộng hòa.
2. Nhóm đảo Thị Tứ nằm ở phía Nam nhóm đảo Song Tử,
gồm đảo Thị Tứ và các bãi đá (Hoài An, Tri Lễ, Cái Vung, Xu Bi,
Vĩnh Hảo).
Đảo Thị Tứ hình bầu dục, rộng 550 m, dài 700 m, có giếng
nước ngọt. Trên đảo có các loại cây: mù u, bàng, nhiều cây leo
chằng chịt. Quanh đảo có nhiều bãi đá ngầm và rong biển.
3. Nhóm đảo Loại Ta nằm ở phía đông nhóm đảo Thị Tứ,
gồm đảo Loại Ta và cồn san hô Lan Can (hay An Nhơn) đá An
Lão, bãi Đường, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta Bắc, bãi Loại Ta
Nam, đảo Dừa và đá Cá Nhám. Đảo hình tròn, đường kính 300 m,
cao khoảng 2 m, trên đảo có nhiều cây lớn. Vòng quanh đảo có
nhiều bãi cát trắng tạo nên phong cảnh đẹp, có giếng nước ngọt
nhưng rất ít nước.
4. Nhóm đảo Nam Yết nằm ở phía nam nhóm đảo Loại Ta,
gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đảo Ba Bình, bãi Bàn Than, đá Núi
Thị, đá Én Đất, đá Lạc, đá Gaven, đá Lớn, đá Nhỏ, đá Đền Cây Cỏ.
Nam Yết là hòn đảo cao nhất của quần đảo, lớn thứ hai sau
đảo Ba Bình, ở phía Nam của nhóm đảo, hình chữ C, dài khoảng
38
700 m, rộng 250 m, cao khoảng gần 5 m. Trên đảo có nhiều loại
cây và nhiều giống cây cỏ có gai vùng nhiệt đới. Quanh đảo có
vòng san hô và bãi đá ngầm.
Đảo Sơn Ca có hình giống chữ C, dài 391 m, rộng 156 m,
cao 3 m.
Đảo Ba Bình được xem là đảo lớn nhất trong quần đảo
Trường Sa, thấp hơn đảo Nam Yết một chút.
Nhìn chung nhóm đảo này có điều kiện sinh hoạt tốt. Phía
Tây Nam nhóm Nam Yết có đá Chữ Thập, đây là chỗ cao nhất của
một bãi cạn dài 25 km, rộng tối đa 6 km.
5. Nhóm đảo Sinh Tồn nằm ở phía nam nhóm đảo Nam Yết,
gồm đảo Sinh Tồn và đá Sinh Tồn Đông, đá Nhạn Gia, đá Bình
Khê, đá Ken Nan, đá Tư Nghĩa, đá Bãi Khung, đá Đức Hòa, đá Ba
Đầu, đá An Bình, đá Bia, đá Văn Nguyên, đá Phúc Sỹ, đá Len Đao,
đá Gạc Ma, đá Cô Lin, đá Nghĩa Hành, đá Tam Trung, đá Sơn Hà.
6. Nhóm đảo Trường Sa nằm ở phía nam và tây nam của cụm
Sinh Tồn, trải dài theo chiều ngang, gồm đảo Đá Lát, Trường Sa,
đảo Đá Đông đảo Trường Sa Đông, đảo Phan Vinh (Hòn Sập) và
đá Châu Viên, đá Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên Nữ. Đảo lớn nhất
là đảo Trường Sa, có dạng hình tam giác cân mà đáy hơi chệch về
phía bắc. Nhóm đảo không có cây lớn, nhiều nhất là nam sâm, có
dược tính, các loại rau sam, muống biển. Có loại chim hải âu trắng,
sơn ca, chim én. Có giếng nước ngọt, song lại có mùi tanh của
san hô.
39
7. Nhóm đảo An Bang nằm phía nam nhóm đảo Trường Sa,
gồm có đảo An Bang, bãi Đất, bãi Đinh, bãi Vũng Mây, bãi
Thuyền Chài, bãi Trăng Khuyết, bãi Kiệu Ngựa, và đá Ba Kè, đá
Hà Tần, đá Tân Châu, đá Lục Giang, đá Long Hải, đá Công Đo, đá
Kỳ Vân, đá Hoa Lau.
An Bang là đảo duy nhất giống như một cái túi, đáy nằm ở
phía đông và miệng thắt lại ở phía tây. Đảo tương đối nhỏ và dài,
chỉ rộng 20 m lúc nước ròng.
8. Nhóm đảo Bình Nguyên nằm ở phía đông gồm đảo Bình
Nguyên, đảo Vĩnh Viễn, đá Hoa, đá Đích-kin-xơn, đá Đin, đá Hàn
Sơn, đá Pét, đá Vành Khăn, cồn san hô Giắc-xơn, bãi Cỏ Mây, bãi
cạn Suối Ngà, đá Bốc Xan, bãi cạn Sa Bin, đá Hợp Kim, đá Ba Cờ,
đá Khúc Giác, đá Bá, đá Giò Gà, đá Chà Và, bãi Mỏ Vịt, bãi cạn
Nam, bãi Nâu, bãi Rạch Vang, bãi Rạch Lấp, bãi Na Khoai. Đảo
Vĩnh Viễn dài chừng 580 m, cao khoảng 2 m. Đảo Bình Nguyên
thấp hơn, hẹp bề ngang.
DANH SÁCH VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
CÁC ĐẢO, ĐÁ, BÃI CỦA QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
Tên gọi
STT
1
2
3
4
40
Đá Bắc
Đảo Song Tử Đông
Đảo Song Tử Tây
Đá Nam
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
11028,0
114023,6
11027,4
114021,3
11025,9
114019,8
11023,3
1140 17,9
Tên gọi
STT
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
Bãi Đinh Ba
Bãi Núi Cầu
Đá Vĩnh Hảo
Đá Tri Lễ
Đá Hoài Ân
Đá Trâm Đức
Đảo Thị Tứ
Đá Cái Vung
Đá An Lão
Bãi Đường
Đảo Bến Lạc
Đèn biển Song Tử Tây
Đá Đền Cây Cỏ
Đá Lớn
Đá Xu Bi
Bãi Loại Ta Nam
Đảo Loại Ta Tây
Đảo Loại Ta
Đá Sa Huỳnh
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
11030,1
114038,8
11021,0
1140 33,7
11005,6
114022,5
11004,5
114015,4
11003,7
114013,3
11003,5
114019,4
11003,2
114017,1
11002,0
114010,5
11009,1
114047,9
11001,3
114041,8
11004,7
115001,2
11025,7
114019,8
10015,4
113036,6
10003,7
113051,1
10055,1
114004,8
10042,1
114019,7
10043,5
114021,0
10040,1
114025,4
10040,7
114 27,6
41
Tên gọi
STT
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
42
Đá An Nhơn Nam
Đá An Nhơn
Đá An Nhơn Bắc
Đá Cá Nhám
Đá Tân Châu
Đá Ga Ven
Đá Lạc
Đảo Nam Yết
Đảo Ba Bình
Đá Bàn Than
Đảo Sơn Ca
Đá Núi Thị
Đá Én Đất
Đá Nhỏ
Đá Long Hải
Đá Lục Giang
Đảo Bình Nguyên
Đảo Vĩnh Viễn
Cụm Hải Sâm
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
10041,4
114029,7
10042,8
114031,9
10046,4
114035,4
10052,8
114055,3
10051,5
114052,5
10012,7
114013,4
10009,9
114015,1
10010,9
114021,6
10022,8
114021,8
10023,3
114024,7
10 22,6
114028,7
10024,7
114035,2
10021,3
114041,8
10001,5
114001,4
10011,5
115018,0
10015,2
115022,1
10049,2
115049,8
10044,2
115048,5
10029,8
115045,7
Tên gọi
STT
43
44
45
46
47
49
50
51
52
53
54
55
57
58
59
60
61
62
63
Đá Hoa
Đá Triêm Đức
Đá Ninh Cơ
Đá Hội Đức
Đá Định Tường
Đá Hợp Kim
Đá Ba Cờ
Đá Khúc Giác
Đá Trung Lễ
Đá Mỏ Vịt
Đá Cỏ My
Đá Gò Già
Đá Chà Và
Đá Tây Nam
Đá Phật Tự
Bãi Hải Yến
Đá Chữ Thập
Đá Núi Mon
Đá Cô Lin
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
10032,0
115044,1
10032,1
115047,7
10029,9
115042,6
10027,7
114043,9
10027,5
115047,2
10048,5
116005,5
10043,0
116010,0
10037,1
116010,3
10057,9
116025,3
10053,7
116026,3
10047,3
116041,3
10048,6
116051,5
10032,8
116056,2
10018,8
116029,7
10007,1
116008,8
10035,2
116059,9
09039,8
112059,0
09012,7
113039,9
09046,4
114015,2
43
Tên gọi
STT
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
44
Đá Gạc Ma
Đá Tam Trung
Đá Nghĩa Hành
Đá Sơn Hà
Đảo Sinh Tồn
Đá Nhạn Gia
Đá Bình Khê
Đá Ken Nan
Đá Văn Nguyên
Đá Phúc Sỹ
Đá Len Đao
Đá Trà Khúc
Đá Ninh Hòa
Đá Vị Khê
Đá Bia
Đá Tư Nghĩa
Đảo Sinh Tồn Đông
Đá An Bình
Đá Bình Sơn
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
09043,2
114016,6
09050,2
114016,1
09051,3
114016,6
09052,9
114018,2
09053,2
114019,7
09053,9
114020,6
09054,0
114023,1
09053,7
114025,6
09050,1
114027,3
09048,0
114023,8
09046,8
114022,2
09041,5
114021,3
09051,1
114029,2
09051,7
114033,0
09052,2
114030,5
09055,1
114030,9
09054,3
114033,7
09054,5
114035,7
09056,2
114031,2
Tên gọi
STT
83
84
85
86
Đá Bãi Khung
Đá Đức Hòa
Đá Ba Đầu
Đá Suối Ngọc
87
Đá Vành Khăn
88
Bãi Cò Mây
89
Bãi Suối Ngà
90
Đá Long Điền
91
Bãi Sa Bin
92
Bãi Phù Mỹ
93
Bãi Đồi Mồi
94
Bãi Cái Mép
95
96
97
98
99
100
101
Đá Bồ Đề
Đá Lát
Đảo Trường Sa
Bãi Đá Tây
Đảo Trường Sa Đông
Bãi ngầm Chim Biển
Bãi ngầm Mỹ Hải
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
09058,0
114033,7
09058,8
114035,3
09059,3
114039,0
09022,9
115026,5
09054,3
115032,3
09044,5
115052,0
09019,1
11056,2
09036,3
116010,3
09044,7
116030,0
09010,1
116028,1
09002,3
116040,2
09027,2
116055,6
09031,4
116023,2
08040,7
111040,2
080 38,8
111055,1
08051,5
112013,1
08056,1
112020,9
08009,0
111058,0
08033,6
111028,0
45
Tên gọi
STT
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
46
Cảng biển Trường Sa Lớn
Đèn biển Đá Lát
Đèn biển Đá Tây
Đá Đông
Đá Châu Viên
Bãi đá Thuyền Chài
Đảo Phan Vinh
Bãi đá Tốc Tan
Đá Kỳ Vân
Đá Núi Le
Đá Tiên Nữ
Đá Én Ca
Đá Sâu
Đá Gia Hội
Đá Gia Phú
Đá Công Đo
Bãi ngầm Ngũ Phụng
Đèn biển Tiên Nữ
Bãi Trăng Khuyết
Bãi ngầm Tam Thanh
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
08038,6
111055,0
08040,0
111039,8
08050,7
112011,7
08049,7
112035,8
08051,9
112050,1
08011,0
113018,6
08058,1
113041,9
08048,7
113059,0
08000,5
113055,0
08042,6
114011,1
08051,3
114039,3
08005,6
114008,3
08007,0
114034,4
08010,5
114042,7
08007,4
114048,3
08021,5
115013,4
08027,0
115009,6
08052,0
114039,0
08053,7
116017,1
08030,5
115032,0
STT
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
Tên gọi
Bãi ngầm Khánh Hội
Đảo An Bang
Đá Suối Cát
Đá Kiệu Ngựa
Đá Hoa Lau
Đèn biển An Bang
Bãi cạn Kiệu Ngựa
Đá Vĩnh Tường
Bãi ngầm Nguyệt Xương
Bãi cạn Đồ Bàn
Bãi cạn Rạch Vang
Đá Vĩnh Hợp
Bãi Cỏ Rong
Đá Đồng Thanh
Bãi Tổ Muỗi
Bãi cạn Na Khoai
Đá Sác Lốt
Tọa độ địa lý
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
08029,0
115056,0
07053,8
112055,1
07038,6
113048,5
07039,0
113056,8
07024,1
113050,2
07052,2
112054,2
07044,3
114015,9
07011,0
114049,0
09032,0
112025,0
10044,0
117018,3
11004,0
117016,5
11004,5
117001,7
11028,5
116022,1
11055,5
116047,0
11028,9
116012,5
10020,0
117017,7
06056,5
113034,5
47
10
Thế nào được gọi là vịnh? Tên các
vịnh lớn của Việt Nam?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 chỉ nêu
định nghĩa chính thức đối với vịnh do bờ biển của một quốc gia
hoặc nhiều quốc gia bao bọc. Khoản 2 điều 10 của Công ước quy
định: “Vịnh cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền
mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa
của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh
và vùng lõm đó sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển”.
Tuy nhiên, Công ước quy định vùng lõm đó chỉ được coi là
Vịnh khi đáp ứng đủ hai điều kiện:
(1) Diện tích của Vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một nửa
hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của
vùng lõm. Diện tích của vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều
thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền
các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu
do các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn
nói trên có đường kính bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt
ngang các cửa vào đó. Diện tích của các đảo nằm trong một vùng
lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm (khoản 3 điều 10).
(2) Đường khép cửa vào tự nhiên của cửa Vịnh không vượt
quá 24 hải lý. “Nếu vượt quá 24 hải lý, thì được kẻ một đoạn đường
48
cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong Vịnh, sao cho phía trong của
Vịnh có một diện tích nước tối đa” (khoản 5 điều 10).
Liên quan đến Việt Nam có hai vịnh lớn là: Vịnh Bắc Bộ và
Vịnh Thái Lan ở Biển Đông.
11
Khái quát về các nguồn tài nguyên
quan trọng ở các vùng biển của Việt
Nam trong Biển Đông?
1. Tài nguyên sinh vật
Biển Đông có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú và đa
dạng, có đến hơn 160.000 loài, gần 10.000 loài thực vật và 260 loài
chim sống ở biển. Trữ lượng các loài động vật ở biển ước tính khoảng
32,5 tỷ tấn, trong đó, các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng.
Vùng biển Việt Nam có hơn 2.458 loài cá, gồm nhiều bộ, họ
khác nhau, trong đó có khoảng 110 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ
lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ lượng cá
có thể đánh bắt hàng năm khoảng 2,3 triệu tấn. Các loài động vật
thân mềm ở Biển Đông có hơn 1.800 loài, trong đó có nhiều loài
là thực phẩm được ưa thích, như: mực, hải sâm,...
Chim biển: Các loài chim biển ở nước ta vô cùng phong phú,
gồm: hải âu, bồ nông, chim rẽ, hải yến,...
Ngoài động vật, biển còn cung cấp cho con người nhiều loại
rong biển có giá trị. Đây là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và là
49
nguồn dược liệu phong phú. Biển nước ta có khoảng 638 loài rong
biển. Các loại rong biển dễ gây trồng, ít bị mất mùa và cho năng
suất thu hoạch cao nên sẽ là nguồn thực phẩm quan trọng của loài
người trong tương lai.
2. Tài nguyên phi sinh vật
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta, có tầm
chiến lược quan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được tổng
tiềm năng dầu khí tại bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam
Côn Sơn, Cửu Long, Malay - Thổ Chu, Tư Chính - Vũng Mây. Trữ
lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ
tấn quy dầu. Ngoài dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khai
thác khoảng 3.000 tỷ m3/năm. Trữ lượng đã được xác minh là gần
550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm
lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian
tới vào khoảng 400 tỷ m3.
Ngoài ra, vùng biển nước ta nằm gọn trong phần phía Tây của
vành đai quặng thiếc Thái Bình Dương, có trữ lượng thiếc lớn, và
tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng của các nguyên tố hiếm, có
triển vọng băng cháy lớn.
3. Tài nguyên giao thông vận tải
Lãnh thổ nước ta có đường bờ biển chạy theo hướng Bắc Nam dọc theo chiều dài đất nước, lại nằm kề trên các tuyến đường
biển quốc tế quan trọng của thế giới, có những vụng sâu kín gió là
điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển và mở
rộng giao lưu với bên ngoài.
50
Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và
thương mại quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, ở cả
bốn phía đều có đường thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
qua các eo biển. Từ các hải cảng ven biển của Việt Nam thông qua
eo biển Ma-lắc-ca để đi đến Ấn Độ Dương, Trung Đông, Châu Âu,
Châu Phi; qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến các
cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa
Phi-lip-pin, In-đô-nê-xia, Xin-ga-po đến Ôtx-trây-lia và Niu Di Lân...
Hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có
các hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh trên Biển Đông. Trong
tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất trên thế giới hiện nay, có 5
tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
4. Tài nguyên du lịch
Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên đẹp là
tiềm năng về du lịch lớn của nước ta.
Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát
bờ biển tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều
vụng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ
liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới
như di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng.
Hệ thống gần 82 hòn đảo ven bờ có diện tích trên 01 km2,
trong đó 24 đảo có diện tích trên 10 km2 (10 - 320 km2), cách bờ
không xa là những hệ sinh thái đảo hấp dẫn. Ở đây không khí trong
lành, nước biển trong và sạch, bãi cát trắng mịn.
51
Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích
Động, Non Nước... Các di tích lịch sử và văn hoá như Cố đô Huế,
phố cổ Hội An, Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm,... phân bố ngay
ở vùng ven biển.
Các trung tâm kinh tế thương mại, các thành phố du lịch nằm
ven biển hoặc cách bờ biển không xa như Hạ Long, Hải Phòng,
Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Hà Tiên, Hà
Nội, Sài Gòn,... Hệ thống đường bộ, đường xe lửa xuyên Việt và
liên vận quốc tế chất lượng cao được xây dựng dọc bờ biển.
12
Tiềm năng dầu khí ở vùng biển
Việt Nam?
Nước ta có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn và cũng
là nơi có triển vọng dầu khí lớn. Hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu
khí ở Việt Nam đã được bắt đầu triển khai ở miền võng Hà Nội và
trũng An Châu từ những năm 1960 với sự giúp đỡ của Liên Xô. Ở
thềm lục địa phía nam, công việc này được các công ty nước ngoài
như Mobil, Pecten,... tiến hành từ những năm 1970. Năm 1975, mỏ
khí Tiền Hải “C” (Thái Bình) được phát hiện và đưa vào khai thác
từ năm 1981. Dựa trên kết quả nghiên cứu địa chất-địa vật lý đã xác
định được 7 bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu khí ở thềm lục địa
nước ta. Đó là bồn trũng sông Hồng, bồn trũng Phú Khánh, bồn
Cửu Long, bồn Nam Côn Sơn, bồn Mã Lai - Thổ Chu, bồn Tư
52
Chính - Vũng Mây và nhóm bồn Trường Sa - Hoàng Sa. Các mỏ
dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác từ lòng đất dưới đáy
biển khu vực thềm lục địa phía Nam, nơi có độ sâu 50 - 200 m nước
và trong tầng cấu trúc địa chất sâu trên 1.000 m đến trên 5.000 m.
Một số mỏ ở bồn trũng Cửu Long (được xem là bồn có chất lượng
tốt nhất) như Bạch Hổ và mỏ Đại Hùng ở bồn trũng Nam Côn Sơn
là những mỏ có chứa dầu cả ở đá móng. Mỏ Bạch Hổ cũng được
xem là trường hợp ngoại lệ chứa dầu trong đá móng (chứa khoảng
80% dầu di chuyển từ nơi khác đến trong hệ thống khe nứt đá móng).
Nguồn dầu khí đã thăm dò, khảo sát của Việt Nam có trữ
lượng tiềm năng khoảng trên 4 tỷ m3 dầu quy đổi và gần đây mở
rộng tìm kiếm đã phát hiện một số mỏ mới cho phép gia tăng trữ
lượng dầu khí của Việt Nam. Trong 5 năm (2006 - 2010) có 12 phát
hiện dầu khí mới, gia tăng trữ lượng dầu khí đạt 333 triệu tấn quy
dầu, riêng năm 2010 có 7 phát hiện dầu khí mới, gia tăng trữ lượng
đạt 43 triệu tấn quy dầu.
Hoạt động khai thác dầu khí được duy trì tại 6 mỏ ở thềm lục
địa phía nam: Bạch Hổ, Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc
và PM3 (Bunga Kekwa). Sản lượng dầu thô khai thác ở nước ta
tăng hàng năm 30% và ngành dầu khí nước ta đã đạt mốc khai thác
tấn dầu thô thứ 1 triệu vào năm 1988, thứ 100 triệu tấn vào ngày
13/2/2001. Ngày 22/10/2010 đã khai thác tấn dầu thô thứ 260 triệu.
Năm 1997 khai thác/thu gom đạt 1 tỉ m3 khí đầu tiên, năm 2003
khai thác/thu gom m3 khí thứ 10 tỷ và đến năm 2010 sản lượng khí
khai thác/thu gom cộng dồn đạt 64 tỉ m3. Năm 1994, sản lượng khai
53
thác đạt 7 triệu tấn dầu thô và giá trị xuất khẩu khoảng 1 tỉ USD;
năm 2001, sản lượng khai thác đạt 17 triệu tấn dầu thô, đạt giá trị
xuất khẩu trên 3 tỉ USD; thu gom và đưa vào bờ 1,72 tỉ m3 khí
đồng hành, cung ứng cho các nhà máy điện Phú Mỹ, Bà Rịa và nhà
máy chế biến khí Dinh Cố. Tổng sản lượng khai thác năm 2003 đạt
17,6 triệu tấn dầu và hơn 3 tỷ m3 khí, năm 2009 đạt 16,3 triệu tấn
dầu, 6 tỷ m3 khí, đóng góp GDP xuất khẩu trên 7 tỷ USD. Năm
2010, đưa 3 mỏ dầu khí mới vào khai thác. Tổng sản lượng khai
thác quy dầu năm 2010 là 24,34 triệu tấn, khai thác dầu thô đạt
15 triệu tấn, khai thác khí đạt 9,40 tỷ m3. Mức tăng trưởng như vậy
đã đưa ngành dầu khí trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước và luôn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu.
Cùng với việc khai thác dầu, hàng năm phải đốt bỏ gần 1 tỉ m3
khí đồng hành, bằng số nhiên liệu cung cấp cho một nhà máy điện
tuabin khí có công suất 300 mW. Để tận dụng nguồn khí này, Chính
phủ đã cho xây dựng một Nhà máy điện khí Bà Rịa và đưa vào hoạt
động năm 1996. Nhà máy lọc dầu đầu tiên cũng đã được khẩn
trương xây dựng và đưa vào hoạt động ở Dung Quất (Quảng Ngãi).
Phương hướng cơ bản sắp tới là đẩy mạnh công tác tìm kiếm
thăm dò dầu khí trên thềm lục địa và vươn ra xa, đi xuống sâu hơn;
xác định các cấu trúc có triển vọng và xác minh trữ lượng công
nghiệp có khả năng khai thác; tiếp tục đưa các mỏ mới vào khai
thác. Trong giai đoạn 2011 - 2015 phấn đấu gia tăng trữ lượng dầu
khí từ 130 - 140 triệu tấn dầu quy đổi.
54
13
Tiềm năng, trữ lượng hải sản của
vùng biển Việt Nam(1)?
Vùng biển Việt Nam là một trong những khu vực có nguồn
lợi hải sản phong phú trên thế giới và có tính đa dạng sinh học cao.
Theo một số công trình nghiên cứu đã công bố, ở vùng biển Việt
Nam có khoảng 2.458 loài cá thuộc 206 họ và nhiều loài hải sản
khác ngoài cá, trữ lượng nguồn lợi hải sản biển nước ta ước tính
khoảng 4,18 triệu tấn (không tính trữ lượng mực, tôm biển, các loài
động vật đáy và rong biển sống ở vùng triều ven bờ).
Trong những năm qua, ngành thủy sản đã phát triển nhanh
chóng và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Tổng sản phẩm
thủy sản không ngừng gia tăng, đặc biệt là sản lượng khai thác:
năm 1986 sản lượng khai thác thủy sản đạt khoảng 0,8 triệu tấn,
năm 1995 là 1,19 triệu tấn, năm 2005 là 1,99 triệu tấn và năm
2007 là 2,06 triệu tấn. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu t ừ khai
thác thủy sản cũng không ngừng gia tăng: năm 2000 giá trị xuất
khẩu t ừ khai thác thủy sản đạt 14.737 tỷ đồng, năm 2005 đạt
22.771 tỷ đồng và năm 2007 đạt 28.687 tỷ đồng.
Những năm gần đây, việc gia tăng cường lực khai thác cùng
với sự cải tiến kỹ thuật, phương tiện khai thác ngày càng hiện đại,
Đào Mạnh Sơn, Vũ Việt Hà, Đặng Văn Thi, Nguyễn Viết Nghĩa, Bách Văn
Hạnh, Mai Công Nhuận: Nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2000 2005, Viện Nghiên cứu Hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
(1)
55
hiệu quả đánh bắt cao hơn đã làm cho nguồn lợi hải sản giảm sút
nghiêm trọng, đặc biệt là ở vùng biển ven bờ. Trong giai đoạn từ
năm 2000 đến 2005, khoảng 36 chuyến điều tra, nghiên cứu, đánh
giá nguồn lợi hải sản bằng các phương pháp khác nhau đã được
thực hiện ở các vùng biển Việt Nam. Kết quả nghiên cứu c ũ n g
cho thấy nguồn lợi hải sản giữa các mùa và giữa các năm biến
động khá lớn. Nhìn chung, năng suất đánh bắt hải sản ở mùa gió
Tây Nam cao hơn so với mùa gió Đông Bắc và năng suất khai thác
ở vùng biển xa bờ cao hơn so với vùng biển ven bờ. Ngư trường
khai thác hải sản trong mùa gió Đông Bắc có xu thế dịch chuyển
về phía Nam so với các ngư trường trọng điểm ở mùa gió Tây
Nam. Trữ lượng nguồn lợi hải sản trên toàn vùng biển Việt Nam
ước tính gần đây khoảng 5,0 triệu tấn và khả năng khai thác bền
vững khoảng t rên 2,3 triệu tấn/năm. Nguồn lợi cá nổi nhỏ
chiếm khoảng 51%, cá nổi lớn chiếm khoảng 21%, cá đáy và hải
sản sống đáy chiếm khoảng 27% tổng trữ lượng nguồn lợi. Ngoài
ra, đến nay đã xác định được 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12
bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi,
cũng như các bãi tôm quan trọng ở vùng biển gần bờ thuộc vịnh
Bắc Bộ và vùng biển Tây Nam Bộ.
Đặc trưng nổi bật nhất về mặt nguồn lợi hải sản ở vùng biển
nước ta là quanh năm đều có cá đẻ, nhưng thường tập trung vào thời
kỳ từ tháng 3 đến tháng 7. Cá biển nước ta thường phân đàn nhưng
không lớn: đàn cá nhỏ dưới 5 x 20 m chiếm 84%, đàn cá lớn cỡ
20 x 500 m - chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Chính vì thế, nghề cá
nước ta là “nghề cá đa loài” và là nghề cá nhỏ gắn bó chặt chẽ với
sinh kế của người dân ven biển và trên các đảo ven bờ. Tiềm năng
nguồn lợi hải sản như vậy đã cung cấp tiền đề quan trọng, góp phần
56
đưa nước ta trở thành một quốc gia có tiềm năng phát triển thủy
sản vững mạnh. Thời gian qua, khoảng 80% lượng thủy sản khai
thác đã được cung cấp từ vùng biển ven bờ và vùng nước lợ ven
biển, đã đáp ứng một lượng protein quan trọng cho người dân.
Năm 2011, khai thác thủy sản biển đạt trên 2,0 triệu tấn, cùng với
nuôi trồng nước lợ và cá tra, basa đã góp phần đưa ngành thủy sản
nước ta đạt mốc kim ngạnh xuất khẩu khoảng trên 6,0 tỷ USD.
14
Tiềm năng về năng lượng biển của
Việt Nam?
Biển có tầm quan trọng đặc biệt đối với chế độ và diễn biến
thời tiết khí hậu ở nước ta. Biển Việt Nam là biển “hở”, lại nằm
trọn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nơi nhận được lượng bức
xạ mặt trời trực tiếp nhiều nhất so với các vành đai khác trên Trái
đất. Vùng biển Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió
mùa điển hình, sức gió mạnh và khá ổn định trong năm. Sự biến đổi
hoàn lưu khí quyển theo mùa dẫn đến các hệ thống thời tiết cơ bản
lần lượt hình thành và hoạt động: mùa hạ và mùa thu là mùa bão,
mùa đông và mùa xuân là thời kỳ gió mùa Đông Bắc. Vùng biển
Việt Nam và Biển Đông nằm ở khu vực chịu ảnh hưởng của nhiều
trung tâm tác động quy mô hành tinh quan trọng nhất: cao áp lạnh
lục địa châu Á, cao áp nhiệt đới Thái Bình Dương, các áp thấp nóng
và rãnh gió mùa phía Tây. Chính vì thế, ở Biển Đông và ven bờ
Việt Nam gió được xem là một nguồn tài nguyên (mặt lợi ích) của
nước ta, đặc biệt trong việc phát triển năng lượng gió (phong điện)
ở vùng ven biển và trên các hải đảo.
57
Nằm trong vùng nhiệt đới, nắng nóng, nên ngoài nguồn năng
lượng gió, nước ta còn có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời.
Hiện nay năng lượng mặt trời ở nước ta đã bắt đầu được khai thác,
sử dụng cho cuộc sống dân sinh trên một số hải đảo và vùng ven biển.
Ngoài ra, nước ta còn có tiềm năng về năng lượng biển (sóng,
dòng chảy và thủy triều) - một nguồn năng lượng sạch, tái tạo trong
tương lai. Là một vùng biển hở, chịu tác động mạnh mẽ của gió
mùa, kéo theo là hai mùa sóng và dòng chảy mạnh theo hướng
đông bắc và đông nam, nên khả năng tận dụng năng lượng sóng
biển và dòng chảy biển là rất quan trọng về lâu dài, đặc biệt ở khu
vực ven biển miền Trung. Các dạng năng lượng thủy triều tiềm
năng ở nước ta cần chú ý khai thác là: năng lượng thủy triều ở khu
vực ven bờ Quảng Ninh - Hải Phòng, nhưng ở quy mô nhỏ vì biên độ
thủy triều nơi đây chỉ khoảng 4-5 m.
15
Băng
Tiềm năng băng cháy của vùng biển
Việt Nam?
cháy là một loại khí hydrate (gas hydrate, methane
hydrate) tồn tại dưới dạng hỗn hợp rắn, trông bề ngoài giống băng
hoặc cồn khô, có thể trong suốt hay mờ đục, dạng tinh thể màu
trắng, xám hoặc vàng. Băng cháy bao gồm khí hydrocarbon (chủ
yếu là methan) và nước, được hình thành trong điều kiện áp suất
cao và nhiệt độ thấp, nên có khả năng bay hơi trong điều kiện bình
thường như băng phiến.
58
Khi nguồn năng lượng truyền thống như than đá, than bùn,
dầu khí,… ngày càng cạn kiệt thì băng cháy với trữ lượng lớn gấp
hơn hai lần trữ lượng năng lượng hóa thạch đã biết được xem là
nguồn năng lượng có hiệu suất cao, sạch và là năng lượng thay thế
tiềm tàng trong tương lai. Chính vì thế, băng cháy đã thu hút sự chú
ý của nhiều quốc gia biển, quốc đảo trên thế giới. Tuy nhiên, băng
cháy có thể là một yếu tố góp phần gây biến đổi khí hậu toàn cầu
do khả năng “tự bốc hơi” trong điều kiện nhiệt độ và áp suất bình
thường và có thể là một dạng tai biến địa chất (geohazard). Các tổ
chức quốc tế đã cảnh báo điều nói trên sẽ xảy ra trong tương lai nếu
các quốc gia hành động thiếu trách nhiệm khi sử dụng công nghệ
lạc hậu trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác, bảo quản và sử dụng
băng cháy.
Biển Đông là một trong 4 khu vực ở Đông Á có tiềm năng về
băng cháy, nhưng cũng chỉ đạt cỡ trung bình của thế giới sau các
vịnh Mexico và Nankai.
Ở Việt Nam, gần đây mới có một số công trình nghiên cứu
tổng quan về băng cháy trên cơ sở hồi cố các tài liệu đã có. Thông
qua các tài liệu địa chất - địa vật lý, địa hóa khí các trầm tích và các
tiền đề khác ở thềm lục địa và vùng biển sâu của Việt Nam trong
khuôn khổ hợp tác nhiều năm với nước ngoài (chủ yếu với Nga,
Mỹ), các nhà địa chất đã nhận định biển nước ta cũng có triển vọng
lớn về băng cháy. Vì thế, Chính phủ rất quan tâm và năm 2010 Thủ
tướng đã ban hành Quyết định số 796/QĐ-TTg phê duyệt “Chương
trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các
59
vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Tổng cục Biển và Hải đảo
Việt Nam phối hợp với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thực
hiện chương trình này thông qua hợp tác với các nước có kinh
nghiệm và công nghệ tiên tiến.
16
Những bãi biển du lịch nổi tiếng
Việt Nam?
Do bờ biển khúc khuỷu, nhiều cung bờ xen kẽ các mũi nhô
đá gốc, nên từ Bắc vào Nam, nước ta có rất nhiều những bãi cát
biển (bãi biển) tuyệt đẹp, nổi tiếng và đã trở nên quen thuộc với du
khách trong và ngoài nước. Trong số khoảng hơn 100 bãi biển ở
nước ta có khoảng 26 bãi biển đẹp (dài, rộng, thoải, cát trắng mịn,
nước biển trong sạch, nằm ở nơi cảnh quan xung quanh đẹp, không
có cá dữ và sinh vật gây hại,…).
Một số bãi biển đẹp ở các tỉnh, thành phố ven biển có thể kể
là: Trà Cổ (Quảng Ninh), Quan Lạn (Quảng Ninh), Thanh Lân
(Quảng Ninh); Cát Cò (Hải Phòng), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn
(Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Cửa Hội (Nghệ An), Thiên Cầm
(Hà Tĩnh), Đá Nhảy (Quảng Bình), Cửa Tùng (Quảng Trị), Lăng Cô
(Thừa Thiên - Huế), Mỹ Khê (Đà Nẵng), Quy Nhơn (Bình Định),
Nha Trang (Khánh Hòa), Ninh Chữ (Ninh Thuận), Cà Ná (Ninh
Thuận), Mũi Né (Bình Thuận), Bãi Trước (Vũng Tàu), Bãi Sau
60
(Vũng Tàu), Phú Quốc (Kiên Giang),... Bên cạnh đó còn có các bãi
biển đẹp, nổi tiếng thu hút du khách thuộc các đảo Cát Bà (Hải
Phòng), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Phú Quốc (Kiên Giang)...
Bãi biển là yếu tố rất quan trọng đối với phát triển du lịch
biển ở một xứ sở nhiệt đới, đặc biệt là các bãi biển nhỏ nhưng gắn
với các hải đảo hoang sơ, các vụng biển tĩnh lặng như ở quần đảo
Cát Bà (Hải Phòng). Mỗi bãi biển đều có những nét đẹp và lợi thế
riêng, thu hút du khách trong và ngoài nước. Nằm trong vùng nhiệt
đới, ấm nóng quanh năm, nên vùng ven biển và hải đảo nước ta
quanh năm chan hòa ánh nắng mặt trời, cùng với các bãi cát trắng,
mịn trải dài ven sóng, biển xanh mênh mông nước ta rất có lợi thế
phát triển du lịch “3S” (sun, sea, sand). Vì thế, việc quy hoạch sử
dụng hợp lý và quản lý hiệu quả các bãi biển sẽ góp phần duy trì
được lợi thế trong phát triển du lịch biển, đảo bền vững.
17
Hãy kể tên những lễ hội đặc sắc của
các địa phương ven biển Việt Nam?
Theo thống kê sơ bộ, cả nước có 8.902 lễ hội trong đó có
7.005 lễ hội dân gian truyền thống, 1.399 lễ hội tôn giáo, 409 lễ hội
lịch sử cách mạng và 25 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
Lễ hội là một hoạt động văn hóa thu hút đông đảo quần chúng tham
gia với tư cách vừa là chủ thể sáng tạo vừa là người hưởng thụ
những thành quả do hoạt động văn hóa đó mang lại. Lễ hội xuất
61
hiện khắp mọi nơi trên cả nước nhưng lễ hội ở các địa phương vùng
biển Việt Nam vừa độc đáo, đặc sắc vừa mang đậm hơi thở cuộc
sống của người dân vùng biển.
Một số lễ hội tiêu biểu là: Hội Đức Thánh Trần, Hội lễ Bạch
Đằng, Lễ hội Đền Cửa Ông (Quảng Ninh), Hội Chọi trâu, Hội Đền
Bà (Đồ Sơn, Hải Phòng), Hội đua thuyền (Cát Hải, Hải Phòng),
Hội Đền Độc cước, Đền Bà Triệu (Sầm Sơn, Thanh Hóa), lễ hội
đền Cuông, đền Cờn, lễ hội Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí,
Hội lễ Khai Canh (huyện Yên Thành, Nghệ An); lễ hội Cầu ngư
của ngư dân (Nghệ An); Hội lễ Nhượng Bạn (huyện Cẩm Xuyên,
Hà Tĩnh); Hội lễ Cầu ngư (Đồng Hới, Quảng Bình); Lễ Khao lề thế
lính Hoàng Sa (Lý Sơn, Quảng Ngãi); Hội lễ Hò khoan, Lễ hội đua
thuyền truyền thống (Quảng Bình); Lễ hội đua thuyền, Lễ hội rước
hến làng Mai Xá (Quảng Trị); Hội lễ Quán Thế âm (Đà Nẵng); Hội
lễ Bà Thu Bồn (Quảng Nam), Hội lễ Long Chu (Hội An, Quảng
Nam); Hội lễ Đổ Giàn (Bình Định); Hội lễ Pô Nagar, Hội lễ Yến
Sào (Nha Trang, Khánh Hòa); Hội lễ Dinh Thầy (Ninh Thuận); Hội
lễ Dinh Cố, Hội lễ đình Thần Thắng Tam (Bà Rịa - Vũng Tàu); Hội
lễ Nghinh Ông (Quảng Ngãi, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp Hồ Chí Minh,
Bạc Liêu); Lễ Cúng biển Mỹ Long (huyện Cầu Ngang, Sóc Trăng);
Lễ hội Vía Bà (Cà Mau); Lễ hội Ooc-om-bok và lễ hội Nghinh Ông
- Kiên Hải (Kiên Giang),...
Bên cạnh các lễ hội đặc thù của từng địa phương thì hầu hết
các tỉnh, thành phố ven biển thường có tục lệ tổ chức lễ hội cầu ngư
hoặc lễ hội Nghinh Ông là loại hình lễ hội cầu cho mưa thuận gió
hòa, cầu cho ngư dân làm ăn trên biển thuận lợi, an toàn.
62
18
Hãy chứng minh vai trò quan trọng
của môi trường biển đối với đời sống
con người?
Nhờ có 71% diện tích biển và đại dương bao phủ bề mặt mà
môi trường Trái đất có những điểm khác cơ bản so với các hành
tinh khác trong hệ Mặt trời. Biển và đại dương được các nhà khoa
học công nhận là cội nguồn của sự sống trên Trái đất. Không có
biển và đại dương, cuộc sống như được biết hôm nay có thể không
tồn tại (Seibol và Berger, 1989). Bởi lẽ, biển và đại dương có nhiều
chức năng quan trọng liên quan tới sự sống của Trái đất. Nó hoạt
động với tư cách là một "cỗ máy điều hoà nhiệt độ" và "cỗ lò sưởi"
khổng lồ có tác dụng điều chỉnh cân bằng các cực trị nhiệt độ thịnh
hành trên Trái đất và làm dịu các ảnh hưởng khốc liệt của thời tiết
như mưa bão, lũ, lụt, khô hạn,... Thiếu biển và đại dương, các đại
lục sẽ trở thành các sa mạc khô cằn, môi trường sống của loài
người trên Trái đất sẽ khắc nghiệt hơn.
Trong bối cảnh loài người đang phải đối mặt và nỗ lực ứng
phó với những tác động khôn lường của biến đổi khí hậu, thì biển
và đại dương một lần nữa lại chứng tỏ vai trò quan trọng toàn cầu
của nó. Hiện nay, đại dương và biển có khả năng thu và lưu giữ
được 30% lượng CO2 thừa trong nhóm khí nhà kính từ bầu khí
quyển của Trái đất và nếu làm cho đại dương lành mạnh hơn thì
khả năng này tiếp tục tăng lên.
63
19
Những yếu tố chủ yếu gây ô nhiễm
môi trường biển?
Theo các nhà nghiên cứu, quan hệ qua lại phức tạp giữa các
tác động của con người thường làm “nhiễu” khiến cho ta khó phân
biệt các tác nhân gây ô nhiễm và suy thoái môi trường biển. Một
cách đơn giản, tác động của con người đối với môi trường biển có
thể được phân chia thành các nhóm chính như sau:
- Từ lục địa mang ra: Các hoạt động phát triển trên đất liền,
đặc biệt trên các lưu vực sông như đô thị hóa, phát triển các khu
công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản nước
lợ, các khu dân cư, khai khoáng,... Các chất thải không qua xử lý đổ
ra sông suối và cuối cùng “trăm sông đều đổ về biển cả”. Lượng
thải từ đất liền ra biển ở nước ta chiếm khoảng 50-60%.
- Từ trên biển: Các hoạt động trên biển như hàng hải, nuôi
trồng và đánh bắt hải sản, phát triển cảng và nạo vét đáy biển, du
lịch biển, thăm dò và khai thác khoáng sản biển (chủ yếu dầu, khí),
nhận chìm tàu và các sự cố môi trường biển khác (tràn dầu, thải
dầu, đổ dầu cặn bất hợp pháp, đổ thải phóng xạ, hóa chất độc hại,...).
- Từ không khí đưa xuống: Các hoạt động tương tác biển - khí
cũng kéo theo hiện tượng lắng các chất gây ô nhiễm xuống biển.
Loại này khó theo dõi và quản lý vì thường phát tán trên diện rộng.
- Từ đáy biển đưa lên: Chủ yếu ở những khu vực có hoặc chịu
ảnh hưởng của các hoạt động địa động lực mạnh như động đất, núi
lửa, sóng thần,...
64
Để thuận tiện trong đánh giá, người ta chia các tác động môi
trường ra thành các tác động trường diễn (mức độ thấp, thời gian
dài) và cấp diễn (thời gian ngắn, tác động nhanh mạnh). Tác động
trường diễn bao gồm sự xâm nhập của một chất độc hoặc một yếu
tố do con người gây ra, thường là liên tục và ở mức độ tương đối
thấp, gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường tiềm năng, từ từ và
lâu dài. Thí dụ: việc xả các chất dinh dưỡng vào biển bắt nguồn từ
nước thải. Tác động cấp diễn biểu hiện khi hoạt động xả thải xảy ra
trong thời gian ngắn, có thể gây ra hiệu ứng rõ ràng, song nó sẽ
giảm dần theo thời gian. Tràn dầu là một thí dụ theo kiểu này: thoạt
đầu, dầu thường có tác động thảm hoạ đối với các hệ sinh thái và
các nơi sinh cư (habitat) ở biển, nhưng chúng có thể sẽ được cải
thiện sau khi dầu đã tràn hết.
Trong thực tế, ô nhiễm có thể phát sinh từ một nguồn, ở một
địa điểm nhất định (đơn nguồn hoặc rõ nguồn gốc, point source)
hoặc từ nhiều nguồn, ở những địa điểm khác nhau (đa nguồn hoặc
không rõ nguồn gốc, non-point). Trong một số trường hợp, ô nhiễm
phát sinh từ một nguồn, như từ một ống cống hoặc từ miệng cống
nước thải của một nhà máy. Khi đó, nồng độ của chất gây ô nhiễm
(contaminant) hoặc cường độ tác động (thí dụ: nhiệt độ ở gần
miệng cống nhà máy điện) sẽ phải giảm dần trên khoảng cách xa
dần so với điểm nguồn. Bản chất của sự giảm như vậy phụ thuộc
vào tính chất lý-hoá của chất gây ô nhiễm hoặc yếu tố dòng chảy và
môi trường trầm tích, cũng như tốc độ xâm nhập của chất hoặc yếu
tố gây ô nhiễm. Trong trường hợp như vậy, việc xác định và quản
lý tương đối đơn giản, bởi vì cơ quan quản lý có thể tìm ra nguồn
phát sinh và theo dõi được quy mô không gian của tác động đó.
Ngược lại, các tác động kiểu đa nguồn thì hoàn toàn không thể gán
cho một địa điểm phát sinh nào cả. Thí dụ khá rõ về kiểu đa nguồn
là: nước chảy sau khi mưa làm các độc chất và chất dinh dưỡng bắt
65
nguồn từ phân bón sau đó có thể bị cuốn vào biển trên một dải bờ
khá rộng, không rõ nguồn xuất phát từ đâu. Trong trường hợp này,
hoạt động quản lý sẽ khó hơn nhiều vì khó xác định rõ ràng nguồn
phát thải về mặt địa lý.
20
Các biện pháp bảo vệ môi trường biển?
Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên: Trong số những lợi
ích mà biển mang lại, các yếu tố môi trường biển, các Hệ sinh thái
và Đa dạng sinh học đóng vai trò đặc biệt quan trọng, luôn đan xen
giữa lợi ích trước mắt và lâu dài theo đúng nghĩa của nó. Đây là
nguồn tài nguyên tái tạo, là nền tảng đối với phát triển bền vững
các ngành kinh tế sinh thái (ecosystem-based economy) của đất
nước. Cho nên, có thể nói sự “trường tồn của biển cả” sẽ phụ thuộc
vào việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên biển.
Giảm thiểu suy thoái và ô nhiễm môi trường biển và vùng
ven biển: Chú trọng phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm biển kết
hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên;
tăng cường bảo tồn Đa dạng sinh học, chú trọng sử dụng hợp lý các
tài nguyên thiên nhiên và kết hợp phát huy nội lực với tăng cường
hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tăng cường thực thi Luật Bảo vệ môi trường (2004) liên quan tới
quy định các hành vi huỷ hoại môi trường bị nghiêm cấm trong các
điều 14-16, 20-29,... áp dụng cho vùng biển.
Quản lý tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo:
thông qua áp dụng và thực thi các giải pháp và giải quyết các vấn
66
đề mang tính liên ngành, liên cơ quan, liên vùng, liên kết với cộng
đồng và các bên liên quan (stakeholder) và quản lý không gian biển
(marine spatial management) dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái
(ecosystem-based approach). Mục đích chung của quản lý tổng hợp
và thống nhất về biển và hải đảo là: đảm bảo phát triển đa ngành,
sử dụng đa mục tiêu (tối ưu hoá) và bảo đảm đa lợi ích (các bên
cùng có lợi) giữa nhà nước, lĩnh vực tư nhân, các bên liên quan và
cộng đồng địa phương, cũng như giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích giữa
các ngành trong quá trình khai thác, sử dụng các hệ thống tài nguyên
- môi trường biển, ven biển và hải đảo.
Tăng cường kiểm soát môi trường biển và vùng ven biển:
Phương thức này bao gồm các công cụ pháp lý liên quan đến hệ
thống kiểm tra, kiểm soát, cưỡng chế thực thi (kiểm soát liên
ngành), chủ yếu như: tiêu chuẩn môi trường, đánh giá tác động môi
trường (ĐTM) và đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), quan trắc
- cảnh báo môi trường, xác định các điểm nóng môi trường hoặc ô
nhiễm, các loại giấy phép và biện pháp kiểm soát sử dụng đất ven
biển và mặt nước biển và hải đảo.
Quan trắc - cảnh báo môi trường: Tiến hành quan trắc định
kỳ và lập lại để đánh giá hiện trạng và xu thế diễn biến chất lượng
môi trường biển, kịp thời cảnh báo để xử lý và có biện pháp cải thiện
chất lượng môi trường. Ngoài hệ thống quan trắc môi trường biển
quốc gia, gần đây Chính phủ đang đầu tư xây dựng hệ thống giám
sát môi trường biển bằng Rada tích hợp (18 trạm dọc biển, đảo).
Các công cụ kinh tế và chính sách: Xây dựng và áp dụng các
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường biển, như: lệ phí ô nhiễm,
lệ phí xả thải, phí sử dụng biển, phí sản phẩm, lệ phí hành chính,
thuế, cấp phép và thu hồi giấy phép khai thác, sử dụng biển, đảo,
các quỹ môi trường biển và các khoản trợ cấp khác.
67
Thực tế cho thấy các quy định xử phạt của Việt Nam còn
nhiều khác biệt và chồng chéo. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường biển còn chưa được đề cập đến. Các mức độ vi
phạm đã cố gắng chi tiết hoá nhưng chưa đầy đủ, mức độ xử phạt
còn thấp và còn thiếu qui định về sử dụng các công cụ pháp lý kinh tế như những biện pháp hữu hiệu để kiểm soát và ngăn ngừa ô
nhiễm biển. Cho nên cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật liên quan đến bảo vệ môi trường biển.
Tham vấn của các bên liên quan và tuyên truyền: Về bản
chất, tài nguyên biển - ven biển thuộc loại tài nguyên chia sẻ
(shared resources) cho nên việc sử dụng nó làm gia tăng mâu thuẫn
lợi ích giữa các cộng đồng hưởng dụng các hệ thống tài nguyên
này. Vì thế, cần một giải pháp quan trọng là phải tranh thủ càng
nhiều càng tốt sự tham vấn của các bên liên quan và lôi cuốn được
khả năng tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động
quản lý môi trường biển và ven biển. Vấn đề này thực hiện đơn lẻ ở
từng khu vực, chưa đại trà.
Thúc đẩy tiến trình xây dựng “Thương hiệu biển Việt Nam”:
xây dựng “Hướng dẫn xác định và cấp chứng chỉ xanh cho các
vùng biển, ven biển, hải đảo”, cũng như “Nhãn sinh thái biển cho
các sản phẩm và dịch vụ kinh tế biển”,... Triển khai thường xuyên
hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp, các
ngành, các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội và người dân địa
phương về quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi
trường biển, ven biển và hải đảo. Tổ chức hàng năm Tuần lễ Biển
và Hải đảo Việt Nam (1-7/6) và hưởng ứng Ngày Đại dương Thế
giới (8/6). Xây dựng và truyền thông điệp về ý thức biển cả của dân
tộc Việt Nam qua câu nói bất hủ của Bác Hồ (1959): “Biển cả của
ta do nhân dân ta làm chủ!”.
68
Phần hai
HáI - §¸P VÒ C¸C VÊN §Ò LI£N QUAN
§ÕN C¸C QUYÒN Vµ B¶O VÖ C¸C QUYÒN
CñA VIÖT NAM TRONG BIÓN §¤NG
69
21
Trong Biển Đông hiện nay đang tồn
tại những loại tranh chấp gì?
Trước hết, theo quan điểm của Việt Nam và căn cứ vào
nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế có liên quan đến
quyền thụ đắc lãnh thổ, Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Căn cứ vào Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán đối với các vùng biển và thềm lục địa được xác lập
phù hợp với Công ước này.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số nước
đã nhảy vào tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, và, do việc giải thích
và áp dụng Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 của
các nước ven biển nằm bên bờ Biển Đông khác nhau, nên đã hình
thành các khu vực biển và thềm lục địa chồng lấn cần được tiến
hành phân định giữa các bên liên quan.
Từ thực tế đó, hiện tại trong Biển Đông đang tồn tại hai loại
tranh chấp chủ yếu:
- Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
- Tranh chấp trong việc xác định ranh giới các vùng biển và
thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển liền kề hay đối
diện nhau ở xung quanh Biển Đông.
70
22
Nguyên tắc pháp lý về quyền thụ
đắc lãnh thổ trong luật pháp và
thực tiễn quốc tế?
Trong lịch sử phát triển lâu dài của luật pháp quốc tế, những
nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác định chủ quyền lãnh thổ đã
được hình thành trên cơ sở của thực tiễn quốc tế, trong đó có các
phương thức thụ đắc lãnh thổ mà các bên tranh chấp thường dựa
vào để bảo vệ cho quan điểm pháp lý của mình, đó là:
- Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “quyền phát hiện”.
- Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”.
- Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “kế cận địa lý”.
1. Phương thức thụ đắc lãnh thỗ theo nguyên tắc “quyền phát
hiện” hay còn được gọi là “quyền ưu tiên chiếm hữu”; theo đó,
dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho một quốc gia
nào đã phát hiện ra nó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc
này không giúp xác định được chủ quyền cho một quốc gia đã
tuyên bố phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Bởi vì, người ta
không thể xác định được một cách cụ thể thế nào là phát hiện đầu
tiên, ai là người đã phát hiện trước, lấy gì để ghi nhận hành vi phát
hiện đó… Vì vậy, việc phát hiện này về sau được bổ sung thêm nội
dung là phải để lại dấu tích cụ thể trên vùng lãnh thổ mới được phát
hiện. Với sự bổ sung này, nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu”
được đổi thành nguyên tắc “chiếm hữu danh nghĩa”. Tuy vậy,
nguyên tắc “chiếm hữu danh nghĩa” vẫn không giải quyết được một
71
cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với
các “vùng đất hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ ở châu Phi và
các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng trăm, hàng ngàn hải lý… Bởi
vì người ta không thể lý giải được “danh nghĩa” hay “danh nghĩa
lịch sử” cụ thể là gì, được hình thành từ bao giờ và đã tồn tại như
thế nào? Vì vậy, trong thực tế nguyên tắc này đã không còn được sử
dụng để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, cho dù hiện tại
vẫn còn một số quốc gia vẫn cố tình bám lấy nó để bảo vệ cho
những yêu sách lãnh thổ vô lý của mình, nào là “chủ quyền lịch
sử”, “danh nghĩa lịch sử”, nào là “đã phát hiện, khai thác, đặt tên,
vẽ bản đồ” từ lâu đời…
2. Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”:
Vì những lý do nói trên, năm 1885 Hội nghị về châu Phi giữa
13 nước châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện pháp luật
quốc tế Lausanne (Thụy Sỹ) năm 1888, nguyên tắc “chiếm hữu thật
sự” đã được thống nhất sử dụng rộng rãi để xem xét giải quyết các
tranh chấp về quyền thụ đắc lãnh thổ.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là:
- Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành.
- Việc chiếm hữu phải được tiến hành trên một vùng lãnh thổ
vô chủ (Res-Nullius) hay trên một vùng lãnh thổ đã bị bỏ hoang
(derelicto).
- Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình một
cách hiệu quả, thích hợp với những điều kiện tự nhiên, dân cư ở trên
vùng lãnh thổ đó.
72
Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền phải hòa bình, liên
tục, rõ ràng; dùng vũ lực để xâm chiếm là phi pháp, không được
thừa nhận.
Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này nên mặc dù
Công ước Saint Germain ngày 10 tháng 9 năm 1919 đã tuyên bố
hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì thế giới không còn “đất vô chủ”
nữa, các luật gia, các Cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng
nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền đối với các
hải đảo: chẳng hạn Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye
tháng 4 năm 1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp
đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan; phán quyết của Tòa án quốc tế của
Liên Hợp quốc tháng 11 năm 1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền
giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous; Tòa án
thường trực quốc tế đã ra phán quyết về vụ tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ đối với đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Mai-lai-xia
và In-đô-nê-xia năm 2002…
3. Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “kế cận địa lý”:
một số quốc gia đã dựa vào sự kế cận về vị trí địa lý để bảo vệ cho
yêu sách chủ quyền lãnh thổ của mình, họ thường nói vùng lãnh thổ
này ở gần lãnh thổ của họ hoặc nằm trong vùng biển, thềm lục địa
của họ, nên “đương nhiên” thuộc chủ quyền của họ. Trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lập luận này không được
thừa nhận như là một nguyên tắc pháp lý. Bởi vì, có rất nhiều vùng
lãnh thổ nằm sát ngay bờ biên của nước này nhưng vẫn thuộc chủ
quyền của nước khác và không hề có sự tranh chấp nào xảy ra…
73
Thực trạng tranh chấp chủ quyền
23
lãnh thổ và vị trí chiếm đóng của
các bên tranh chấp đối với quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
thuộc chủ quyền của Việt Nam?
1. Đối với quần đảo Hoàng Sa:
Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam
vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý
Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ
chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện
của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính
quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo
vệ, quản lý quần đảo này.
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua
trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm
đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân
quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm
đóng ở quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi
Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ và trong khi
chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng
Sa, CHND Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông
quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên
đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam
74
Việt Nam, CHND Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra
xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam
Cộng hòa đóng giữ.
Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHND
Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt
Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư
cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt
Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của
Hiệp định Giơ-ne-ve năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên
mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận.
2. Đối với quần đảo Trường Sa:
a. Trung Quốc: Đã tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo
Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một
công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao
Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung
Quốc”.
Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba
Bình. Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình.
Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lượng đánh
chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa, ra
sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng
quân kiên cố, như những pháo đài trên biển.
Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh
chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Nam quần đảo Trường Sa.
Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi
75
cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần
đảo Trường Sa của Việt Nam.
Như vậy, tổng số đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc đã dùng
sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 7 vị
trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo
Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô là bãi Bàn Than.
b. Phi-líp-pin: Bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần
đảo Trường Sa bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng
quần đảo Trường Sa phải thuộc về Phi-líp-pin vì nó ở gần Phi-líp-pin.
Từ năm 1971 đến năm 1973, Phi-líp-pin đưa quân chiếm
đóng 5 đảo; năm 1977-1978, chiếm thêm 2 đảo; năm 1979, công bố
Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp
toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào trong một đơn
vị hành chính, gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ Phi-líp-pin. Năm
1980, Phi-líp-pin chiếm đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam
Trường Sa, đó là đảo Công Đo… Đến nay, Phi-lip-pin chiếm đóng
9 đảo, đá trong quần đảo Trường Sa.
c. Mai-lai-xia: Mở đầu bằng sự việc Sứ quán Mai-lai-xia ở
Sài Gòn, ngày 03 tháng 02 năm 1971, gửi Công hàm cho Bộ Ngoại
giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thời
thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh thổ
Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa có yêu sách đối với quần
đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam
Cộng hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam,
mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi
phạm pháp luật quốc tế.
76
Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Mai-lai-xia xuất bản bản đồ
gộp vào lãnh thổ Mai-lai-xia khu vực phía Nam Trường Sa, bao
gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội Việt Nam
Cộng hòa đóng giữ.
Năm 1983-1984 Mai-lai-xia cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm
ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm
1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Hiện
nay, Ma-lai-xia đang chiếm giữ 5 đảo, đá, bãi cạn trong quần đảo
Trường Sa.
d. Bru-nây: Tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan
đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Bru-nây
chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới
vùng biển và thềm lục địa được thể hiện trên bản đồ có phần chồng
lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa.
24
Phương thức thụ đắc lãnh thổ của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa là gì?
Phương thức thụ đắc lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là theo nguyên tắc chiếm hữu
thật sự. Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng: Nhà nước Việt Nam
là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền
của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi
chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu
và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng.
77
Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng
định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam đã
25
chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa như thế nào?
Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ
XVII đến cuối thế kỷ XIX, dù trải qua 3 triều đại khác nhau, đều đã
thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước
Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối
với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa:
Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn: Chứng cứ lịch sử có
giá trị pháp lý chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa,
đó là sự ra đời và hoạt động thường xuyên, liên tục của đội Hoàng
Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập
thêm đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo
lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc
Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.
Nhà nước Đại Việt thời Tây Sơn: Trong thời gian từ 1771 đến
năm 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng
như ngoài Biển Đông. Tuy nhiên, các lực lượng của Chúa Nguyễn,
Chúa Trịnh, Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực lãnh thổ thuộc
phạm vi quản lý của mình.
78
Từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng Quy Nhơn, tiến về
phía Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn, Quảng Ngãi, nơi có cửa
biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré, căn cứ xuất phát của Đội Hoàng Sa.
Năm 1775, Phường Cù Lao Ré thuộc xã An Vĩnh, huyện
Bình Sơn, Quảng Ngãi đã nộp đơn xin cho phép đội Hoàng Sa và
đội Quế Hương hoạt động trở lại theo thông lệ.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng Hoàng đế, chính quyền Tây
Sơn được củng cố một cách hoàn chỉnh và năm 1786, đã ra quyết
định sai phái Hội Đức hầu, cai đội Hoàng Sa, chỉ huy 4 chiếc
thuyền câu vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như cũ. Ngoài ra
còn có các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải Ba cũng được giao nhiệm
vụ hoạt động trong Biển Đông.
Nhà nước Việt Nam thời nhà Nguyễn tiếp tục sử dụng đội
Hoàng Sa, đội Bắc Hải làm nhiệm vụ khai thác và bảo vệ hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống
nhất đất nước, tuy bận việc nội trị, vẫn tiếp tục quan tâm đến việc
bảo vệ, quản lý và khai thác khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Tháng 7 năm 1803, vua Gia Long cho lập lại đội Hoàng Sa:
Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân
ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa (theo Đại Nam thực lục chính
biên, đệ nhất kỷ, quyển 12).
Tháng giêng năm Ất Hợi (1815) vua Gia Long quyết định:
“sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem
79
xét đo đạc thủy trình”… (Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ,
q.50, tờ 6a).
Sang đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho
thủy quân thực hiện…
Năm 1833, 1834, 1836, Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công
phái người ra Hoàng Sa để dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình,
vẽ bản đồ… mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10
tấm bài gỗ dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, “Vua Minh Mạng đã chuẩn y
lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa
binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc…”
Như vậy, suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn, đội
Hoàng Sa, kiêm quản đội Bắc Hải, đã đi làm nhiệm vụ quản lý nhà
nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Những
hoạt động này đã được các văn bản nhà nước ghi nhận, như: châu
bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản của chính quyền địa
phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp,… hiện đang được lưu trữ tại
các Cơ quan lưu trữ nhà nước.
Trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan
trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong
kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với hai quần đảo
này. Đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ
thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa
Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa
(Ngãi), lúc là phủ khi thì trấn: “Bãi Cát vàng trong phủ Quảng
Nghĩa” (Toản tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ
80
Quảng Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam, huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh”
(Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn); sang thời Tây Sơn, phủ Quảng
Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa
thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Với tư cách là đại diện của nhà nước
26
Việt Nam về đối ngoại, Cộng hòa
Pháp đã tiếp tục thực thi chủ
quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
như thế nào?
Theo Hiệp ước Pa-tơ-nốt năm 1884, Chính quyền thuộc địa
Pháp đã tiến hành các hoạt động đại diện cho Nhà nước Việt Nam
trong việc tiếp tục bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau đây là
một số hoạt động chủ yếu, có giá trị pháp lý:
Sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại
thực địa của các nhà khoa học và những cuộc trao đổi giữa những
chính khách Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa, ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương đã
tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là
bộ phận lãnh thổ thuộc địa của Pháp. Ngày 19 tháng 3 năm 1926,
Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa
cho Công ty phosphat của Bắc kỳ.
Ngày 13 tháng 4 năm 1930, Thông báo hạm Malicieuse do
thuyền trưởng De Lattre điều khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ
81
thị của Toàn quyền Đông Dương dựng bia chủ quyền, đóng giữ đảo
Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc. Ngày 23 tháng 9 năm
1930, Chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường
quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục.
Ngày 31 tháng 12 năm 1930, Phòng đối ngoại Phủ Toàn
quyền Đông Dương gửi báo cáo lên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ thuộc
địa Pháp về những hoạt động đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo
phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp lý bảo vệ cho sự
kiện đóng giữ này.
Ngày 11 tháng 01 năm 1931, Thống sứ Nam kỳ thông báo
cho Toàn quyền Đông Dương về việc sáp nhập quần đảo Trường Sa
vào tỉnh Bà Rịa.
Ngày 04 tháng 01 năm 1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm
tới Công sứ Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp
đối với Hoàng Sa và đề nghị giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng tài quốc tế. Trung
Quốc từ chối đề nghị này với lập luận rằng khi vua Gia Long chiếm
hữu quần đảo này, Việt Nam là chư hầu của Trung Quốc.
Ngày 21 tháng 12 năm 1933, Thống đốc Nam Kỳ J.Krautheimer
ký Nghị định số 4762-CP sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh
Bà Rịa.
Ngày 18 tháng 02 năm 1937, Pháp lại chính thức yêu cầu
Trung Quốc áp dụng phương thức trọng tài quốc tế để xác định chủ
quyền quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc lại khước từ.
Ngày 26 tháng 11 năm 1937, Pháp phái kỹ sư trưởng
J.Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn
82
biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ, nghiên cứu các điều kiện định cư ở
quần đảo này.
Năm 1938, Pháp phái các đơn vị bảo an đến đồn trú trên các
đảo và xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức
Khí tượng thế giới cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú
Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở
đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa.
Ngày 30 tháng 3 năm 1938, vua Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp
nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây.
Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Jules
Brevie ký Nghị định 156-S-V thành lập đơn vị hành chính cho quần
đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được
phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được
dựng tại đảo Hoàng Sa có khắc dòng chữ: “Republique Francaise Rayaume d’Annam - Achipel de Paracel 1816- Ile de Pattle 1938”.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật bản tuyên bố sáp
nhập các quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật
đã chiếm đóng. Ngày 4 tháng 4 năm 1939, Chính phủ Pháp gửi
Công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu
quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngày 5 tháng 5 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương J.Brevie
ký Nghị định số 3282 tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành hai
83
đơn vị: “Croissant và các đảo phụ thuộc”, “Amphitrite và các đảo
phụ thuộc”.
Ngày 26 tháng 11 năm 1943, Tuyên bố Cairo về việc kết thúc
chiến tranh với Nhật và giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, trong
đó có vấn đề lãnh thổ nước khác bị Nhật chiếm đóng từ khi bắt đầu
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1 năm 1914.
Ngày 26 tháng 7 năm 1945, Tuyên bố Posdam khẳng định
các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật thua trận phải rút khỏi
Đông Dương và ngày 26 tháng 8 năm 1945, quân đội Nhật phải rút
khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
27
Việc thực thi chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa giai đoạn 1945 - 1975?
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc
dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, không
còn ràng buộc vào Hiệp định Pa-tơ-nốt 1884, song Pháp cho rằng
theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn
thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam
trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
84
Theo Hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp dựng lên
chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng
Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm
chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới (OMM: Organisation
Mondiale de Meteorologie) đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh
sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới:
Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số hiệu 48860,
Trạm Ba Bình số hiệu 48419.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký với Bảo Đại Hiệp định
Hạ Long trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại, tháng 4, Hoàng
thân Bửu Lộc, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối
với Hoàng Sa.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Tổng trấn Trung phần Phan
Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa
Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hội nghị
San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước
với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng, ngày 5 tháng 9, với 48
phiếu chống, 3 phiếu thuận, đã bác bỏ đề nghị của ngoại trưởng
Gromưco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa
ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND
Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về
phía Nam.
85
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của
Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên
bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam:
“et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour
étouffer les germes de discorde, nous affirmons nó droits sur les
iles de Spratley et de Paracel qui de tout temps ont fait partie du
Vietnam”. Không một đại biểu nào trong Hội nghị có bình luận gì
về tuyên bố này. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hòa ước với Nhật được
ký kết. Điều 2, Đoạn 7 của Hòa ước đã ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ chủ
quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và
Sprathly” (khoản f).
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết
đã công nhận một nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp định đã quy định lấy sông Bến
Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời để phân chia quyền quản
lý lãnh thổ giữa 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Giới tuyến tạm thời
này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài
khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm
dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền
Nam Việt Nam.
Tháng 4 năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi
Đông Dương, quân đội quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam
Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc và Phi-líp-pin tiến hành
vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên
86
tiếng phản đối: Ngày 24 tháng 5 và ngày 8 tháng 6 năm 1956, Việt
Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng
với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và
tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, Tàu HQ04 của Hải quân Việt
Nam Cộng hòa đã ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ quyền, dựng
cờ, bảo vệ quần đảo trước hành động xâm chiếm trái phép, vi
phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Phi-líp-pin.
Ngày 20 tháng 10 năm 1956, bằng Sắc lệnh 143/VN, Việt Nam
Cộng hòa đã đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã có quyết định bổ nhiệm
ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ,
Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa; ngày 27
tháng 6 năm 1961, bổ nhiệm ông Hoàng Yêm giữ chức Phái viên
hành chính Hoàng Sa. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Việt Nam Cộng
hòa sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Ngày 11
tháng 4 năm 1967, Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số
809-NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ chức phái viên hành chính
xã Định Hải (Hoàng Sa), quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ngày
21 tháng 10 năm 1969, bằng Nghị định số 709-BNV-HCĐP-26 của
Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa sáp nhập xã Định Hải (quần đảo
Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila,
Bộ trưởng Ngoại giao VNCH Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng
định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền
Việt Nam.
87
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam
Cộng hòa ký Nghị định 420-BNV-HCĐP/26 sáp nhập quần đảo
Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Từ 17 tháng 01 đến 20 tháng 01 năm 1974, Trung Quốc huy
động lực lượng quân sự đánh chiếm nhóm phía Tây, quần đảo
Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh
dũng hy sinh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không cản phá được
hành động xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên trên mặt trận
ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ
trước Liên Hợp quốc và cộng đồng quốc tế: ngày 19 tháng 01 năm
1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra Tuyên cáo kêu gọi
các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm
lược thô bạo của Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của
mình trước sự kiện này:
- Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng
liêng đối với mỗi dân tộc.
- Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước
láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.
- Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải
giải quyết bằng thương lượng.
Ngày 01 tháng 02 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tăng cường
lực lượng đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa trong tình hình
88
Trung Quốc tăng cường sức mạnh tiến hành xâm chiếm lãnh thổ mà
theo nhận định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Trung cộng sẽ
đánh Trường Sa và xâm chiếm bằng vũ lực giống như Hoàng Sa, có
sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ”.
Ngày 02 tháng 7 năm 1974, tại Hội nghị Luật biển lần thứ 3
của Liên Hợp quốc tại Caracas, đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã lên
tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ
lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là
lãnh thổ Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
này là không tranh chấp và không thể chuyển nhượng.
Ngày 14 tháng 02 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa công bố
Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa.
Việt Nam thực thi chủ quyền của
28
Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa từ năm
1975 đến nay?
Ngày 05 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Hải quân Nhân dân
Việt Nam đã triển khai kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 13 đến 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng Quân đội
Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam
Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các
đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa.
89
Ngày 05 tháng 6 năm 1975, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 02 tháng 7 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội
khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được
bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, đã quyết định đổi tên nước là
CHXHCN Việt Nam. Nhà nước CHXHCN Việt Nam hoàn toàn có
nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngày 12 tháng 5 năm 1977, Chính phủ CHXHCN Việt Nam
ra tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN
Việt Nam công bố Sách trắng: chủ quyền Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó đã giới thiệu 19 tài liệu
liên quan đến chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố
Sách trắng “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ
Việt Nam”.
Ngày 12 tháng 11 năm 1982, Chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam ra Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam.
90
Ngày 09 tháng 12 năm 1982, Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam ký Quyết định số 193-HĐBT thành lập huyện Trường Sa
thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 11 tháng 12 năm 1982, Chính phủ
CHXHCN Việt Nam ký quyết định số 194-HĐBT thành lập huyện
Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 28 tháng 12 năm 1982, Quốc hội khóa 7 nước
CHXHCN Việt Nam ra Nghị quyết sáp nhập huyện Trường Sa vào
tỉnh Phú Khánh.
Ngày 11 tháng 4 năm 2007, Chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam ký Nghị định số 65/NĐ/CP quyết định thành lập 3 đơn vị
hành chính trực thuộc huyện Trường Sa:
- Thị trấn Trường Sa, gồm đảo Trường Sa Lớn và phụ cận.
- Xã Song Tử Tây, gồm đảo Song Tử Tây và phụ cận.
- Xã Sinh Tồn, gồm đảo Sinh Tồn và phụ cận.
Năm 1988, CHND Trung Hoa đã huy động lực lượng vũ
trang đánh chiếm các bãi cạn phía tây bắc quần đảo Trường Sa.
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp
quốc và gửi các Công hàm tố cáo và phản đối CHND Trung Hoa đã
đánh chiếm các bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa: Chữ Thập,
Châu Viên, Gaven, Tư Nghĩa, Gạc Ma, Su Bi.
Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam
công bố Sách trắng “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và Luật
pháp quốc tế”.
91
Ngày 01 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Khánh được tách làm
hai tỉnh: Phú Yên và Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh
Khánh Hòa.
Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982.
Ngày 01 tháng 01 năm 1997, Đà Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, huyện
đảo Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng.
Ngày 25 tháng 4 năm 2009, Thành phố Đà Nẵng công bố
quyết định bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ giữ chức Chủ tịch
UBND Huyện Hoàng Sa…
Cho đến nay, ngoài những hoạt động kể trên, Việt Nam đang
đóng giữ và quản lý 21 vị trí tại quần đảo Trường Sa; không ngừng
củng cố và phát triển các cơ sở vật chất phục vụ cho đời sống kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng của huyện Trường Sa thuộc tỉnh
Khánh Hòa.
Vài nét khái quát về Toản tập Thiên
29
Cuốn
Nam tứ chí lộ đồ thư - một trong
những tác phẩm đầu tiên đề cập đến
chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa,
Trường Sa?
sách Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư gồm
4 quyển, có một số bản đồ với những hàng chữ chú giải, do nho
92
sinh họ Đỗ Bá, tên tự là Đạo Phủ (thường được gọi là Đỗ Bá Công
Đạo) sưu tầm, biên soạn vào khoảng năm 1630 đến 1653, đã xác
nhận rằng Chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa để quản lý và khai thác
quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ XVII.
Trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (quyển 1) có đề
cập đến Hoàng Sa như sau: “Ở làng Kim Hồ, trên hai bên bờ sông,
có hai ngọn núi, mỗi ngọn đều có mỏ vàng được khai thác dưới sự
kiểm soát của chính phủ. Ở giữa biển, có một quần đảo dài 400 lý
và rộng 200 lý có tên là “Bãi Cát Vàng” nhô lên từ đáy biển hướng
về phía duyên hải giữa hai cảng Đại Chiêm và Sa Vinh. Vào mùa
mưa tây - nam, các thương thuyền từ các quốc gia khác nhau qua lại
gần bờ thường bị đắm ở các khu vực quần đảo này. Điều tương tự
cũng xảy ra trong mùa mưa đông - bắc cho các thương thuyền qua
lại trên vùng biển. Tất cả mọi người trên tàu bị đắm ở khu vực này
thường bị chết đói. Nhiều loại thương thuyền khác nhau bị đắm trôi
dạt vào đảo này. Mỗi năm trong suốt tháng cuối cùng của mùa
đông, các Chúa nhà Nguyễn thường phái đến các đảo này một hạm
đội gồm 18 tàu buồm để vớt các chiếc tàu đắm. Họ thu được rất
nhiều vàng, bạc, tiền đúc, súng ống và đạn dược. Từ cảng Đại
Chiêm phải mất một ngày rưỡi để đến quần đảo này, trong khi chỉ
mất có một ngày nếu khởi đi từ Sa Kỳ”.
Mặc dù sự mô tả địa lý trong tác phẩm chưa thật chính xác so
với thực tế nhưng cũng cho thấy rõ ràng Nhà nước Việt Nam thời
xưa đã chiếm hữu, chính thức khai thác “Bãi cát vàng” (quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa). Như vậy là, Toản tập Thiên
Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá Công Đạo sưu tập, soạn vẽ và chính
93
thức hoàn thành theo lệnh của chúa Trịnh những năm niên hiệu
Chính Hòa (1680 - 1705) có thể coi là văn kiện của nhà nước, một
tài liệu chính thức của quốc gia. Những thông tin thể hiện trong bộ
“đồ thư” này cho thấy rõ ràng cương giới xứ Đàng Trong do chúa
Nguyễn quản lý từ cuối thế kỷ XVI đã mở rộng ra khu vực các
quần đảo ở giữa Biển Đông. Tên gọi nôm na mà nhân dân xứ Đàng
Trong đặt cho hai quần đảo san hô là “Bãi cát vàng”, rồi chuyển
sang âm Hán Việt là “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử” để sử dụng
chính thức trong các văn kiện, tài liệu của triều đình thời Lê và
Nguyễn, như trong Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại
Nam nhất thống toàn đồ, tên gọi này được dùng để chỉ chung cả hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay.
30
Trường Sa và Hoàng Sa được ghi
chép khá kỹ trong một số thư tịch cổ
và được thể hiện rõ ràng trong các
châu bản (văn bản quản lý hành
chính nhà nước của triều đình nhà
Nguyễn). Kể tên một số bộ sách và
các châu bản tiêu biểu?
Trường Sa, Hoàng Sa được ghi chép khá kỹ trong khá nhiều
tư liệu cổ. Có thể kể ra một số tài liệu lịch sử, địa lý tiêu biểu như:
- Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo
gồm 4 quyển, nhiều bản đồ và chú giải được biên soạn vào khoảng
năm 1630 đến 1653, xác nhận việc Chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa
để quản lý và khai thác quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ XVII.
94
- Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, viết tại Phú Xuân (Huế)
khi ông được vua Lê - chúa Trịnh phái đi trấn nhậm Thuận Hóa,
Quảng Nam vào năm 1776. Bộ sách gồm 6 phần viết về xứ Đàng
Trong, nhất là xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam từ thế kỷ XVIII trở
về trước, thời gian chúa Nguyễn trị vì, trong đó miêu tả khá chi tiết
về quần đảo Hoàng Sa. Các sử thần trong Quốc sử quán triều
Nguyễn khi biên soạn bộ sách Đại Nam thực lục tiền biên đã sử
dụng lại nhiều tài liệu trong bộ Phủ biên tạp lục.
- Một số bộ sử khác của triều Nguyễn, như:
+ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần
nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình
thuộc lục bộ, trong đó có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia,
trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực
(về cơ bản cũng giống như Đại Nam thực lục chính biên, Quốc
triều chính biên toát yếu).
+ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ
bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, gồm 49 quyển được hoàn
thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và
đội Hoàng Sa cũng giống như trong sách Phủ biên tạp lục.
+ Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý - lịch sử của
Nguyễn Thông, có đoạn chép về Vạn lý Trường Sa, nói về đặc
điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo
Hoàng Sa. Ngoài ra, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa, như
việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của
đội Hoàng Sa…
95
+ Châu bản triều Nguyễn (các văn bản hành chính có bút phê
của Vua vào thế kỷ XIX) hiện được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I (Hà Nội) có nhiều bản tấu của đình thần bộ Công và
một số cơ quan khác, chỉ dụ của các vua về việc xác lập chủ quyền
của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn. Đặc biệt,
trong tài liệu châu bản triều Nguyễn có một số châu bản thời Minh
Mệnh (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847) đề cập chi tiết tới
nhiều sự kiện liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và
chủ quyền của Việt Nam.
+ Đại Nam nhất thống chí là bộ sách địa lý chính thức của
triều Nguyễn, gồm 28 tập với 31 quyển, do Quốc Sử quán triều
Nguyễn thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng
Sa, Trường Sa được nói đến trong quyển 8.
+ Nam Hà tiệp lục của tác giả Lê Đản là cuốn sách chép sử
thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, từ gốc tích đến năm Gia Long thứ
3 (1804). Tác giả đã miêu tả khá nhiều về Hoàng Sa. Ngoài ra,
trong sách cũng cung cấp nhiều tư liệu ghi chép ở Đàng Trong về
Hoàng Sa khá phong phú, như trong đoạn nói về việc hàng năm có
18 chiếc thuyền ra Hoàng Sa để thu nhặt hóa vật ở đây. Nam Hà
tiệp lục đã cung cấp thêm một tư liệu lịch sử minh chứng chủ quyền
của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa dưới thời các chúa Nguyễn.
31
Vài nét về đội Hoàng Sa và đội Bắc
Hải?
Suốt trong ba thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX,
một tổ chức của nhà nước, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải (do đội
96
Hoàng Sa kiêm quản), là bằng chứng hùng hồn có giá trị pháp lý về
sự xác lập chủ quyền của Đại Việt ở Đàng Trong đối với Hoàng Sa.
Đội Hoàng Sa ra đời ở Cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré thuộc
tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một tổ chức nhà nước, vừa mang tính chất
dân sự vừa mang tính chất quân sự; vừa có chức năng kinh tế, vừa
có chức năng quản lý nhà nước ở Biển Đông, ra đời từ đầu thời
chúa Nguyễn.
Đứng đầu đội Hoàng Sa là một “cai đội”, những thành viên
trong Đội được gọi là “lính”. Đó là những quân nhân đi làm nhiệm
vụ do Vua, Chúa ban.
Thời Chúa Nguyễn, mỗi năm lấy 70 suất đinh để thực hiện
những nhiệm vụ của đội Hoàng Sa. Số lượng 70 suất là số lượng
đặc biệt cho một đội dân binh như đội Hoàng Sa.
Sử sách Việt Nam và của cả Trung Quốc đều chép đội Hoàng
Sa được thành lập vào đầu thời chúa Nguyễn. Hải ngoại kỷ sự (Trung
Quốc) viết năm 1696, chép thời Quốc Vương trước đã có những hoạt
động của đội “Hoàng Sa” và Phủ biên tạp lục viết năm 1776, chép
“Tiền Nguyễn Thị”. Đại Nam thực lục tiền biên (1821) chép “Quốc
sơ trí Hoàng Sa”. Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (năm 1686), đã đề cập
đến các hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục cũng như
các tài liệu khác đều cho biết đội Hoàng Sa khi trở về đất liền vào
tháng 8 âm lịch vào cửa Eo hay Tư Hiền rồi nộp sản vật tại chính
dinh ở Phú Xuân. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan mới bắt đầu dời
chính dinh đến Kim Long vào năm Dương Hoà nguyên niên (1635)
và thời chúa Nguyễn Phúc Tần mới dời qua Phú Xuân.
97
Đội Hoàng Sa đã hoạt động kể từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay
Nguyễn Phúc Tần đến hết thời kỳ chúa Nguyễn, cả thảy 7 đời chúa,
gần một thế kỷ rưỡi. Phong trào Tây Sơn nổi dậy, chúa Nguyễn
chạy vào đất Gia Định thì đội Hoàng Sa đặt dưới quyền kiểm soát
của Tây Sơn mà trong tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ họ Võ,
phường An Vĩnh, Cù Lao Ré, đã cho biết năm 1786 (tức niên hiệu
Thái Đức năm thứ 9), dân Cù Lao Ré đã xin chính quyền Tây Sơn
cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại. Đến những năm cuối cùng của
Tây Sơn, hoạt động của đội Hoàng Sa cũng bị ảnh hưởng, nên đến
vua Gia Long (1803) mới cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại
Về lịch hoạt động ở ngoài đảo, theo những tài liệu như Hoàng
Việt địa dư chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống
chí..., hàng năm đội Hoàng Sa bắt đầu đi từ tháng 3 âm lịch đến
tháng 8 âm lịch thì về. Riêng theo Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư hay
Toản tập An Nam lộ thì lúc đi vào thời điểm cuối Đông, không nói
thời gian về; theo Phủ biên tạp lục có bản đồ thường đi vào tháng
giêng âm lịch đến tháng 8 về.
Đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải có nhiệm vụ thu lượm các sản
vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ vùng biển quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngoài ra, về sau còn đảm trách đi xem xét, đo đạc thủy trình
vùng Hoàng Sa.
Đội Hoàng Sa còn được giao nhiệm vụ kiêm quản đội Bắc Hải,
một tổ chức được lập ra để thực thi nhiệm vụ trên khu vực quần đảo
Trường Sa. Đội Bắc Hải được thành lập sau đội Hoàng Sa vào
khoảng trước năm 1776. Địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải chủ yếu
là ở khu vực quần đảo Trường Sa, khu vực biển Côn Sơn, Hà Tiên...
98
Phủ biên tạp lục, quyển 2, của Lê Quý Đôn đã ghi chép về
đội Bắc Hải như sau:
“Họ Nguyễn còn thiết lập đội Bắc Hải. Đội này không định
trước bao nhiêu suất. Hoặc chọn người thôn Tứ Chính thuộc phủ
Bình Thuận, hoặc chọn người làng Cảnh Dương, lấy những người
tình nguyện bổ sung vào đội Bắc Hải. Ai tình nguyện đi thì cấp
giấy sai đi và chỉ thị sai phái đội ấy đi làm nhiệm vụ”.
“Những người được bổ sung vào đội Bắc Hải đều được miễn nạp
tiền sưu cùng các thứ tiền lặt vặt, như tiền đi qua đồn tuần, qua đò”.
“Những người trong đội đi thuyền câu nhỏ ra xứ Bắc Hải,
Cù lao Côn Lôn và các đảo thuộc vùng Hà Tiên để tìm kiếm,
lượm nhặt những hạng đồi mồi, hải ba, đồn ngư (cá heo lớn), lục
quý ngư, hải sâm”.
Các sử sách được viết vào thế kỷ XIX như Đại Nam thực lục
tiền biên, soạn xong năm 1844, Đại Nam nhất thống chí, soạn xong
năm 1882, cũng đã ghi nhận về hoạt động của đội Bắc Hải.
32
Vài nét về Lễ Khao lề thế lính. Nghi
lễ này được tổ chức ở đâu? Trong
thời gian nào? Ý nghĩa của nghi lễ
này?
Vào thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “đội Hoàng Sa” lấy
người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi làm nhiệm
99
vụ quản lý, khai thác Hoàng Sa, thu lượm hàng hóa của các tàu mắc
cạn, đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp và còn đo vẽ,
trồng cây và dựng mốc trên hai quần đảo. Trước khi những người
lính Hoàng Sa chuẩn bị xuống thuyền, các tộc họ trên đảo Lý Sơn
tổ chức lễ Khao lề thế lính. Lễ này được tổ chức vào ngày 20 tháng
2 âm lịch hàng năm để cầu cho người ra đi được bình an trên dặm
dài sóng nước. Ngày nay, cũng vào tháng 2, tháng 3 âm lịch hàng
năm, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi và nhân dân trên đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi) đều tổ chức Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa tại đình
làng An Vĩnh, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Buổi lễ diễn ra với các nghi thức cúng tế như: thổi kèn ốc, tái hiện
hình ảnh các hùng binh ra khơi, thả thuyền nan và hình nhân xuống
biển hướng tới quần đảo Hoàng Sa… đã trở thành một nghi lễ
truyền thống nhằm giữ gìn bản sắc quê hương, tri ân đến những
người con đất Việt qua các thế hệ đã không quản khó khăn, thậm
chí hy sinh cả tính mạng mình để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng
của Tổ quốc, đồng thời giáo dục con cháu lòng yêu nước, tự hào
dân tộc cũng như ý thức sâu sắc về chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Hàng năm, ngư dân trên đảo Lý Sơn vẫn thường xuyên tổ
chức Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, nghi thức truyền thống này
không chỉ nhận được sự quan tâm, ủng hộ của chính quyền và nhân
dân địa phương tỉnh Quảng Ngãi mà còn thu hút sự chú ý của đông
đảo nhân dân trong cả nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài. Do
tính chất và ý nghĩa của nó, Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa đã được
nhà nước quyết định nâng cấp trở thành lễ hội cấp quốc gia và đình
làng An Vĩnh, nơi diễn ra lễ hội này đã được công nhận là Di tích
Văn hóa phi vật thể của Việt Nam.
100
33
Vài nét về một số bản đồ cổ tiêu
biểu thể hiện Hoàng Sa, Trường
Sa thuộc lãnh thổ của Việt Nam?
Các nhà nghiên cứu đã sưu tầm và công bố nhiều bản đồ cổ
đáng tin cậy của Việt Nam cũng như của các nhà truyền giáo, hàng
hải phương Tây thể hiện Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ
Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, từ năm 1467, vua Lê Thánh
Tông đã ra lệnh điều tra hình thế sông núi thuộc địa phương để vẽ
thành bản đồ, hai lần nhà vua giao cho bộ Hộ quy định những chi
tiết do các quan địa phương tiến dâng để lập thành địa đồ toàn vẹn
lãnh thổ Đại Việt. Bộ Hồng Đức bản đồ được hoàn thành vào cuối
năm 1469, được bổ sung nhiều lần về sau, gồm bản đồ cả nước và
các địa phương, trong đó có các vùng biển, đảo, đã ghi lại khá toàn
diện hình ảnh của quốc gia Đại Việt ở cuối thế kỷ XV. Tiếp đó,
khoảng năm 1686, Đỗ Bá Công Đạo (người Nghệ An) biên soạn bộ
Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư có đoạn mô tả về quần đảo
Hoàng Sa (Bãi cát Vàng) được cho là dựa trên cơ sở trích từ tập
Hồng Đức bản đồ. Trong hai bộ bản đồ này đều có vẽ một bãi cát
dài nằm ở ngoài biển kéo từ cửa Đại Chiêm qua cửa Sa Kỳ đến Sa
Huỳnh có ghi rõ là Bãi cát Vàng.
Đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX), việc đo đạc thủy trình, vẽ bản
đồ về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do một cơ quan quản lý hành
101
chính cấp Nhà nước là bộ Công phụ trách, thực hiện. Tháng 3 năm
Bính Tý (1816), vua Gia Long lệnh cho thủy quân phối hợp với đội
Hoàng Sa đi ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình. Đến thời
Minh Mạng (1820-1840), việc phái thủy quân ra Hoàng Sa đo thủy
trình và vẽ bản đồ được xúc tiến đều đặn hàng năm. Ví như năm
1834, vua Minh Mạng cử đội trưởng giám thành Trương Phúc Sĩ
cùng 20 thủy binh ra Hoàng Sa vẽ bản đồ. Tiếp đó, năm 1837, thủy
quân triều Nguyễn đi Hoàng Sa đã vẽ thành bản đồ 12 hòn đảo.
Năm 1838, thủy quân triều Minh Mạng đã vẽ được một bản đồ
chung tổng thể về Hoàng Sa. Đặc biệt, năm 1834, triều đình
Nguyễn dưới thời vua Minh Mạng đã hoàn thiện và công bố chính
thức bản đồ quốc gia gọi là Đại Nam nhất thống toàn đồ. Bản đồ
này đã thể hiện chi tiết bờ biển và hải đảo của Việt Nam, trong đó
ghi rõ chủ quyền của Việt Nam bao gồm cả vùng quần đảo giữa
Biển Đông.
Từ thế kỷ XVI, các nhà hàng hải phương Tây đã có nhiều ghi
chép và bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông, được gọi là
“Pracel”, “Paracel”, hoặc “Paracels”, thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Trong Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam
(Hà Lan) năm 1606 gọi vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de
Chapar (Bãi đá ngầm Champa) hay Pulo Capaa (Đảo của Champa).
Trong Bản đồ do Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592 -
1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam
et du Cămpa của P.Y.Manguin in tại Paris (Pháp) năm 1972, hay
102
tấm Bản đồ nổi tiếng do Van Langren vẽ năm 1598 được in trong
cuốn Iconographie Historique de l’Indochine của P.Boudet và
A.Masson, tại Paris năm 1931 thể hiện đoạn bờ biển tương đương
với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa
Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là “Costa da Pracel” (Bờ biển Hoàng
Sa). Như thế tức là đã từ rất lâu, các nhà hàng hải phương Tây đã
coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ
biển Đàng Trong thuộc lãnh thổ Việt Nam lúc đó.
Trong số các bản đồ của giáo sĩ và thương nhân phương Tây
liên quan đến vùng quần đảo giữa Biển Đông, nổi tiếng bậc nhất có
thể kể đến An Nam Đại quốc họa đồ của Giám mục Jean Louis
Taberd, xuất bản năm 1838, được cho là một tài liệu phản ánh
những hiểu biết sâu sắc và chính xác của người phương Tây từ thế
kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX về mối quan hệ giữa quần đảo Hoàng
Sa và nước Đại Việt mà tác giả gọi là An Nam Đại Quốc. Tấm
bản đồ này khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm
trong vùng biển Việt Nam.
Mặt khác, nhiều bản đồ của Trung Quốc và các nước
phương Tây cũng thể hiện cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc chỉ
giới hạn đến cực Nam của đảo Hải Nam.
103
Đại Nam nhất thống toàn đồ
Đây là bản đồ Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838,
đã vẽ “Hoàng Sa”, “Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ
Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam.
104
An Nam Đại quốc họa đồ
Đây là bản đồ Việt Nam trong cuốn Từ điển La tinh - Việt Nam
của Giám mục Jean Louis Taberd xuất bản năm 1838, khẳng định Cát
Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển Việt Nam.
105
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (tạm dịch: Bản đồ địa dư (trọn vẹn)
các tỉnh của triều đình nhà Thanh) xuất bản năm 1904 cho thấy lãnh thổ
của Trung Quốc chỉ giới hạn về phía đông là đảo Đài Loan., phía nam
là đảo Hải Nam. Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, Trung Quốc vẫn chưa hề
có ý định xác lập chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam.
106
34
Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 ra đời như thế nào?
Các quy ước có tính quốc tế liên quan đến biển đã hình thành
từ rất sớm, ngay trong thời kỳ cổ đại. Đến thế kỷ XIII, một số
nguyên tắc về luật biển đã xuất hiện và phổ biến ở Bắc Âu, Địa
Trung Hải. Vào thế kỷ XVII, Luật Biển bắt đầu được khái quát,
tổng kết một cách có hệ thống.
Hội nghị quốc tế đầu tiên về Luật Biển được Hội Quốc liên
triệu tập năm 1930 tại La Hay (Hà Lan) để bàn luận, xây dựng các
quy định quốc tế về quy chế lãnh hải, chống cướp biển và các
nguyên tắc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của biển. Do có nhiều
mâu thuẫn giữa các quốc gia tham gia hội nghị về chiều rộng lãnh
hải nên Hội nghị La Hay 1930 chưa đạt được kết quả cụ thể nào.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), Liên Hợp
quốc được thành lập để giữ gìn hòa bình, ngăn chặn chiến tranh và
giải quyết các vấn đề quốc tế. Năm 1958, Liên Hợp quốc triệu tập
Hội nghị lần thứ nhất về Luật Biển tại Genève (Thụy Sĩ). Hội nghị
này đã thông qua 4 công ước quốc tế đầu tiên về luật biển là: Công
ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp; Công ước về Biển cả; Công ước
về đánh cá và bảo tồn tài nguyên nguyên sinh vật của biển cả; và
Công ước về Thềm lục địa.
Ngày 15/3/1960, Liên Hợp quốc tiếp tục triệu tập Hội nghị
Luật Biển lần thứ II tại Genève (Thụy Sĩ). Nhưng do có nhiều bất
đồng nên hội nghị này đã không đạt được kết quả nào đáng kể.
107
Đến năm 1973, Hội nghị của Liên Hợp quốc về Luật Biển lần
thứ 3 đã được chính thức triệu tập. Qua 9 năm thương lượng (từ
năm 1973 đến 1982) với 11 khóa họp, Hội nghị của Liên Hợp quốc
về Luật Biển lần thứ 3 đã thông qua các công ước mới về Luật Biển
ngày 30/4/1982 với 130 phiếu thuận, 04 phiếu chống, 17 phiếu
trắng và 02 nước không tham gia bỏ phiếu. Ngày 10/12/1982, 107
quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam đã chính thức ký
kết Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển tại Montego Bay
(Jamaica).
Đến tháng 11/1996 đã có 108 nước phê chuẩn, Công ước có
hiệu lực từ ngày 16/11/1994.
Quá trình soạn thảo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 trải qua 2 giai đoạn cơ bản là giai đoạn chuẩn bị và giai
đoạn đàm phán trong hội nghị, xây dựng liên tục nhiều bản dự thảo
Công ước, cho đến lễ ký kết Công ước diễn ra từ ngày 07/12/1982
đến ngày 10/12/1982 tại Montego Bay (Jamaica).
35
Những nội dung chính của Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là
Công ước Luật Biển 1982) được 107 quốc gia và vùng lãnh thổ,
trong đó có Việt Nam, ký kết tại Montego Bay (Jamaica) ngày
10/12/1982. Công ước bao gồm 17 phần, 320 điều khoản, 9 phụ lục
và 4 nghị quyết. Công ước có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Hiện
nay đã có 162 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia Công ước.
108
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 là một văn
kiện quốc tế tổng hợp toàn diện bao quát được tất cả những vấn đề
quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương thế giới,
xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi quốc gia (có biển cũng
như không có biển, phát triển hay đang phát triển) về nhiều mặt như
an ninh, bảo vệ, nuôi trồng, khai thác tài nguyên, giao thông liên
lạc, nghiên cứu khoa học, công nghệ… đối với các vùng biển thuộc
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia cũng như
đối với các vùng biển nằm ngoài phạm vi thuộc quyền tài phán
quốc gia. Công ước cũng đã đặt ra trình tự và thủ tục giải quyết các
tranh chấp trên biển giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình.
Công ước thể hiện sự cố gắng lớn của cộng đồng quốc tế để
điều chỉnh tất cả các khía cạnh liên quan đến biển, tài nguyên biển
và việc sử dụng biển, tạo nên một trật tự thế giới mới cho việc quản
lý và sử dụng biển của nhân loại.
36
Vai trò và ý nghĩa của Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 là một
công ước tiến bộ thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu có tính
đến lợi ích của tất cả các quốc gia trên thế giới. Công ước không
chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi phải tham gia cả gói (package deal)
theo nguyên tắc “nhất trí” (consensus). Nếu phê chuẩn Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các quốc gia phải có trách
nhiệm ràng buộc và thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Công ước được coi là một trong những thành tựu có ý nghĩa
nhất trong lĩnh vực luật pháp quốc tế của thế kỷ XX và Công ước
109
đã tạo ra một trật tự pháp lý mới trên biển, tương đối công bằng và
được thừa nhận rộng rãi.
Ngay sau Lễ ký kết, Tổng Thư ký Liên Hợp quốc đã đánh
giá “Công ước là văn bản pháp lý có ý nghĩa nhất của thế kỷ này”,
còn Chủ tịch Hội nghị Liên Hợp quốc lần thứ III về Luật Biển, ông
Tommy TB Koh, gọi Công ước là “Bản Hiến pháp cho Đại dương”.
37
Khái niệm chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán được hiểu
như thế nào trong Công ước Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982?
- Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập
đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là
quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi nội thủy
và lãnh hải của quốc gia đó.
- Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được
hưởng trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng như
đối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế,
bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió...
- Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven
biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc
thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số
loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên
biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết
bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của
quốc gia đó.
110
Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong
khi quyền tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ
trợ, tạo ra môi trường để thực hiện quyền chủ quyền được tốt hơn.
Bên cạnh đó, trong khi chủ quyền và quyền chủ quyền chỉ được
thực hiện trên vùng lãnh thổ mà quốc gia có quyền thì quyền tài
phán có không gian mở rộng hơn, tới những nơi mà quốc gia đó
không có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng trên tàu thuyền
có treo cờ của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong vùng
biển thuộc chủ quyền của một quốc gia khác).
38
Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 quy định các vùng
biển nào thuộc chủ quyền của các
quốc gia ven biển?
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các
quốc gia ven biển có chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải của mình,
chủ quyền này cũng được mở rộng vùng trời ở bên trên đến vùng
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ở bên dưới các vùng biển đó.
Điều 8, khoản 1 Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 định nghĩa nội thủy là “các vùng nước ở phía bên trong đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Trong vùng nội thủy, các
quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như
trên lãnh thổ đất liền của mình. Tàu thuyền nước ngoài muốn ra vào
vùng nội thủy phải xin phép quốc gia ven biển và phải tuân theo
luật lệ của quốc gia đó.
111
Lãnh hải hay còn gọi là “vùng nước lãnh thổ” là một dải biển
ven bờ nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ đất liền hoặc nội thủy
của quốc gia ven biển, có chiều rộng nhất định được tính từ đường
cơ sở của quốc gia đó và thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc gia
ven biển. Chủ quyền này được mở rộng và áp dụng đối với cả vùng
trời trên lãnh hải, cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy
của lãnh hải.
Tuy nhiên, do yêu cầu, tính chất truyền thống của hàng hải
quốc tế, luật pháp quốc tế trù định quyền của mọi loại tàu, thuyền
của tất cả các quốc gia được đi qua không gây hại trong lãnh hải
của quốc gia ven biển với điều kiện không gây ảnh hưởng đến hòa
bình, trật tự, an ninh và môi trường của quốc gia ven biển. Cần lưu
ý là quyền đi qua không gây hại không được áp dụng đối với vùng
trời trên lãnh hải. Phương tiện bay nước ngoài muốn bay qua vùng
trời trên lãnh hải của một nước ven biển phải xin phép nước ven
biển đó.
Đối với quốc gia quần đảo, lãnh hải nằm ngoài và tiếp liền
với lãnh thổ và vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo đó.
Đối với các đảo riêng biệt, đáp ứng đúng định nghĩa đảo nêu
trong luật pháp quốc tế (Điều 121, Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982) thuộc về một quốc gia ven biển, nhưng nằm
ngoài phạm vi lãnh hải chung của quốc gia đó, thì lãnh hải của từng
đảo này cũng được xác định như trên.
Đại đa số quốc gia trên thế giới quy định chiều rộng lãnh hải
từ 3-12 hải lý. Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982
quy định chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển không quá 12
hải lý, kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng công ước.
112
113
114
39
Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 quy định các vùng
biển nào thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán của các quốc gia ven
biển?
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, quốc
gia ven biển có quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia đối với
các vùng biển sau đây:
Vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous zone): Công ước quy
định các quốc gia ven biển có quyền có một vùng tiếp giáp lãnh
hải. Đây là vùng biển nằm ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải và
không được mở rộng quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải, tại đó, quốc gia ven biển thực hiện các thẩm
quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước
ngoài. Vùng tiếp giáp lãnh hải nằm trong vùng đặc quyền kinh tế
và là một bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế.
Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết
nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan,
thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của
mình; trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra
trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Tại Điều 303, Công ước đã mở rộng thẩm quyền của quốc gia
ven biển đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên
đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải. Để kiểm soát việc mua bán
các hiện vật này, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật
đó từ đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải mà không có sự thoả
thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven
biển ở trên lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
115
Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone) là vùng
biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có chiều
rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, lần đầu
tiên được ghi nhận trong Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982. Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng đặc biệt, trong đó
quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm
mục đích kinh tế, được quy định bởi Công ước, mà không chia sẻ
với các quốc gia khác.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác,
bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc phi
sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và
khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng
lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán về việc:
- Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và
công trình;
- Nghiên cứu khoa học về biển;
- Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Tuy vậy, trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia,
dù có biển hay không có biển, đều được hưởng các quyền tự do
hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm
116
cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích hợp pháp
khác và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do nói trên và phù
hợp với các quy định của Công ước.
Quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích
hợp để bảo tồn, quản lý và duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng
đặc quyền kinh tế tránh không bị ảnh hưởng do khai thác quá mức.
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 còn quy định cụ
thể các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc
gia khác nhằm bảo tồn các loài sinh vật biển như: các loài cá di cư
xa; các loài có vú; các đàn cá vào sông và ra biển sinh sản; các loài
định cư...
Thềm lục địa (Continental Shelf) là vùng đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên
phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho
đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến giới hạn nằm cách đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa
lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý. Trong
trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ven biển kéo dài tự
nhiên vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có
thể mở rộng ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một
khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc
cách đường đẳng sâu 2.500 m một khoảng cách không vượt quá
100 hải lý.
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối
với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên
của mình. Đây là những đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển
này không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa (bao gồm các tài nguyên phi sinh vật
và các tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư), thì không ai có
117
quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thoả thuận
rõ ràng của các quốc gia ven biển. Các quyền của quốc gia ven biển
đối với thềm lục địa tồn tại một cách “nghiễm nhiên”, không phụ
thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất
cứ tuyên bố rõ ràng nào.
Tuy nhiên, khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải
lý quốc gia ven biển có nghĩa vụ đóng góp tài chính theo quy định
của Công ước. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của
mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải
hay các quyền tự do của các quốc gia khác đã được Công ước thừa
nhận. Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải
thoả thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của cáp hoặc
ống dẫn ngầm.
40
Khái niệm đường cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải? Đặc điểm đường cơ sở
của Việt Nam?
Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và là
ranh giới phía ngoài của nội thủy, do nước ven biển quy định trên
cơ sở phù hợp với Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982. Đường cơ sở là căn cứ để xác định phạm vi, chiều rộng của
lãnh hải và các vùng biển khác như vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa.
Theo quy định tại điều 5 và điều 7 của Công ước, các quốc
gia ven biển (không phải là quốc gia quần đảo) có hai loại đường cơ
sở là đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng.
118
Đường cơ sở thông thường là ngấn nước thủy triều thấp nhất
dọc theo bờ biển, ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc
nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển hoặc
ở nơi mà bờ biển cực kỳ không ổn định do có sự hiện diện của các
châu thổ hoặc các đặc điểm tự nhiên khác thì áp dụng phương pháp
đường cơ sở thẳng, tức là phương pháp nối liền các điểm thích hợp
để có thể sử dụng để vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải.
Đường cơ sở thẳng được áp dụng trong ba trường hợp sau
đây: Ở những nơi bờ biển khúc khuỷu, bị khoét sâu và lồi lõm; ở
những nơi có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ
biển; ở những nơi có các điều kiện thiên nhiên đặc biệt gây ra sự
không ổn định của bờ biển như sự hiện diện của các châu thổ.
Tuy vậy, đường cơ sở thẳng phải đáp ứng hai điều kiện quy
định trong Công ước, đó là “tuyến các đường cơ sở thẳng không
được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển” và “các vùng biển
ở bên trong các đường có sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức
đạt được chế độ nội thủy” (khoản 3 điều 7).
Căn cứ theo Công ước, căn cứ theo địa hình bờ biển Việt
Nam, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Ngày 12/11/1982, Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã
tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt
Nam. Theo đó, “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của
lục địa Việt Nam là đường thẳng gãy khúc nối liền các điểm có toạ
độ ghi trong phụ lục kèm theo Tuyên bố này”.
Điều 8 của Luật Biển Việt Nam quy định “Đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được
Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở
những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Ủy ban thường vụ
Quốc hội phê chuẩn”.
119
Thực hiện Điều này, thời gian tới đây chúng ta cần tiếp tục
công bố bổ sung đường cơ sở thẳng trong vịnh Bắc Bộ và những
khu vực khác.
Sơ đồ đường cơ sở thẳng của Việt Nam năm 1982
120
41
Theo Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển 1982, Việt Nam có
những vùng biển nào?
Việt Nam là một quốc gia ven biển với hơn 3.260 km đường
bờ biển. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982,
Việt Nam có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa. Phạm vi và
chế độ pháp lý các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam được quy
định chi tiết trong Luật Biển Việt Nam và các văn bản quy phạm
pháp luật khác.
42
Quy định về nội thủy của Việt Nam?
Theo điều 9 và 10 của Luật Biển Việt Nam 2012, nội thủy
của Việt Nam là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong
đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Theo quy định
thì nội thủy bao gồm cửa sông, vũng vịnh, cửa biển và vùng nước ở
phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển. Nhà nước thực hiện chủ
quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh
thổ đất liền.
121
43
Tàu thuyền nước ngoài hoạt động
trong nội thủy Việt Nam phải chấp
hành những quy định gì?
Tàu thuyền, máy bay nước ngoài khi hoạt động trong vùng
nội thủy của Việt Nam là đang ở trong lãnh thổ Việt Nam, cho nên
phải tuyệt đối chấp hành các quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến các hoạt động trong vùng nội thủy của Việt Nam như:
việc cấp phép bay, lưu thông hàng hải, phân luồng lạch đi lại, quy
định của các cảng biển... cũng như những quy định khác về an ninh,
quốc phòng, trật tự công cộng, kiểm dịch, y tế, hải quan,…
44
Hãy cho biết rõ hơn phạm vi và chế
độ pháp lý của lãnh hải theo Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982?
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, lãnh
hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở, có chiều rộng tối đa
là 12 hải lý (1 hải lý = 1.852 m).
Trong lãnh hải, quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn
toàn và đầy đủ. Do đó, quốc gia ven biển có thể quy định chế độ
pháp lý đối với lãnh hải cũng tương tự như đối với lãnh thổ trên đất
liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới của nước ven biển.
Quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ đối với
lãnh hải nhưng không phải là tuyệt đối, vì theo Công ước, các tàu
122
thuyền nước ngoài được quyền “qua lại không gây hại” trong lãnh
hải, và thường lưu thông theo tuyến phân luồng giao thông hàng hải
do nước ven biển quy định.
Công ước có những điều quy định rõ thế nào là “qua lại
không gây hại” (điều 17, 18, 19). Công ước cũng quy định quốc gia
ven biển có quyền đưa ra các quy định liên quan đến việc qua lại
không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài (điều 21, 22) và có
nghĩa vụ không cản trở quyền “qua lại không gây hại” của tàu
thuyền của các quốc gia khác (điều 24).
45
Chiều rộng và chế độ pháp lý của
lãnh hải Việt Nam?
Điều 11 Luật Biển Việt Nam (2012) khẳng định “Lãnh hải là
vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của
Việt Nam”.
Điều 12 Luật Biển Việt Nam cũng quy định rõ chế độ pháp lý
lãnh hải Việt Nam như sau:
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối
với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của
lãnh hải phù hợp với Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982.
123
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi
qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự
nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải
Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải
được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền,
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt
Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời
ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính
phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ,
lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
46
Quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải được hiểu như thế nào?
Quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải Việt Nam?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định:
“… tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển,
đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của
quốc gia ven biển”.
Công ước quy định thế nào là “đi qua” và thế nào là “đi qua
không gây hại”. Theo đó, có thể hiểu là với điều kiện không gây ra
124
các hành động gây hại, đe doạ hòa bình, an ninh trật tự của quốc
gia ven biển, các loại tàu thuyền nước ngoài (kể cả tàu quân sự)
được quyền đi qua vô hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển mà
không cần phải xin phép, không bị cản trở, không bị thu lệ phí và
không bị phân biệt đối xử. Tuy nhiên Công ước cũng quy định: “Ở
trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc
phải đi nổi và treo cờ quốc tịch” (điều 21) và “nếu một tàu chiến
không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên
quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân
thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia
ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức”
(điều 30).
Ngoài ra, quốc gia ven biển cũng được phép đề ra các luật và
quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại (điều 21, 22) và
có thể thi hành các biện pháp cần thiết để ngăn cản mọi việc đi qua
có gây hại (điều 25).
Việt Nam đã tham gia Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 ngày 25/7/1994 và tôn trọng quyền đi qua không gây hại
của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải theo đúng quy định của
Công ước.
Luật Biển Việt Nam quy định “Đi qua không gây hại trong
lãnh hải” tại Điều 23 và “Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua
không gây hại” tại Điều 24. Theo đó, “việc đi qua không gây hại
trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc
phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển”. Việc đi qua
của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây
phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật
125
tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi
nào sau đây: Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Đe dọa hoặc sử dụng vũ
lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia
khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên Hợp quốc;
Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ
hình thức nào; Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an
ninh của Việt Nam; Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an
ninh của Việt Nam; Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay
lên tàu thuyền; Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên
tàu thuyền; Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu
thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế,
y tế hoặc xuất nhập cảnh; Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi
trường biển; Đánh bắt hải sản trái phép; Nghiên cứu, điều tra, thăm
dò trái phép; Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin
liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam; Tiến
hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
“Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy
định của pháp luật Việt Nam về nội dung: An toàn hàng hải và điều
phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao
thông; Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công
trình khác; Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn; Bảo tồn tài nguyên
sinh vật biển; Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản;
Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển; Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh”.
126
47
Theo
Phạm vi và chế độ pháp lý của vùng
tiếp giáp lãnh hải theo Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 và Luật Biển Việt Nam 2012?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982,
vùng tiếp giáp lãnh hải được hiểu là vùng biển nằm ngoài lãnh hải
và tiếp liền với lãnh hải. Vùng biển này hợp với lãnh hải và có
chiều rộng tối đa là 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải.
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền tài
phán trong việc ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy
định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập cư xảy ra trên lãnh thổ hay
lãnh hải của mình, có quyền tài phán trong việc trừng trị những vi
phạm đối với các luật và quy định nói trên, xảy ra trên lãnh thổ hay
lãnh hải của mình. Ngoài ra, điều 303 của Công ước còn mở rộng
quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật có tính lịch sử và
khảo cổ, theo đó, việc lấy các hiện vật từ đáy biển trong vùng tiếp
giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển, sẽ được
coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó trên lãnh thổ
hoặc trong lãnh hải của mình.
Điều 13 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định “Vùng tiếp giáp
lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có
chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải”.
Điều 14 quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
của Việt Nam như sau:
127
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc
gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với
vùng tiếp giáp lãnh hải.
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải
nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan,
thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải
Việt Nam.
Phạm vi và chế độ pháp lý của vùng
48
Công
đặc quyền kinh tế theo Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 và Luật Biển Việt Nam 2012?
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 quy định:
“Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và
tiếp liền với lãnh hải...”.
Chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế “không được mở rộng
ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải” (điều 57).
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, lần đầu
tiên được ghi nhận trong Công ước. Đây là một vùng biển đặc thù,
trong đó quốc gia ven biển có những thẩm quyền riêng biệt nhằm
mục đích kinh tế, tuân theo những quy định của Công ước.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có những
quyền sau:
128
- Các quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và
quản lý các tài nguyên sinh vật và không sinh vật, của vùng nước
trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như
những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục
đích kinh tế từ nước, hải lưu và gió.
- Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của
Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị
và công trình; Nghiên cứu khoa học về biển; Bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển; và các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác (dù có biển
hay không có biển) đều được hưởng quyền tự do hàng hải, tự do
hàng không, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như quyền
tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp (khoản 1
điều 58).
Phù hợp với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định cụ thể: Vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm
ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có
chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Luật Biển Việt Nam quy định chế độ pháp lý vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam như sau:
1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và
bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và
129
lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai
thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân
tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không;
quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp
pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước
CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên
biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận
bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử
dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết
bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ
sở các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành
viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam
hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật
quốc tế có liên quan.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều
17 và Điều 18 của Luật này.
130
49
Phạm vi và chế độ pháp lý của thềm
lục địa theo Công ước Liên Hợp quốc
về Luật Biển năm 1982 và Luật Biển
Việt Nam 2012?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 định nghĩa
thềm lục địa như sau: “thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao
gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc
gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của
quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của
rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”.
Tuy vậy, các khoản tiếp theo trong điều 76 của Công ước
cũng quy định trong trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của
một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200
hải lý, như đã nói ở trên, thì quốc gia ven biển này có thể xác định
ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách
không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường
đẳng sâu 2.500 mét một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý,
với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh
giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước và phù hợp với các kiến
nghị của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được thành lập theo Phụ
lục II của Công ước.
Chế độ pháp lý của thềm lục địa được thể hiện qua các quyền
của quốc gia ven biển. Đó là việc thực hiện quyền chủ quyền đối
131
với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục
địa. Ngoài ra, quốc gia ven biển còn có quyền tài phán về nghiên
cứu khoa học biển trên thềm lục địa của mình; quyền đối với các
đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên thềm lục địa; quyền bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển.
Các quốc gia khác có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa (điều 79), và cần được sự thoả thuận của quốc
gia ven biển.
Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
là quan trọng nhất, thể hiện ở chỗ:
Quyền này có tính chất đặc quyền, nghĩa là “quốc gia ven
biển không thăm dò hoặc không khai thác tài nguyên thiên nhiên
trên thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động
như vậy, nếu không có sự thoả thuận của quốc gia đó” (khoản 2
điều 77).
Quyền này tồn tại đương nhiên và ngay từ đầu, quốc gia ven
biển không cần phải chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, và không
cần phải tuyên bố.
Phù hợp với các quy định của Công ước, Điều 17 Luật Biển
Việt Nam 2012 quy định: Thềm lục địa Việt Nam là đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam,
trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và
quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Điều 18 Luật Biển Việt Nam quy định rõ chế độ pháp lý thềm
lục địa Việt Nam như sau:
132
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa
về thăm dò, khai thác tài nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính
chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò
thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không
có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho
phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm
lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và
hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở
thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước
quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm
phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi
ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận
bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử
dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và
công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế
mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo
quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ
Việt Nam.
133
50
Vì sao Việt Nam nộp hai báo cáo
quốc gia xác định ranh giới ngoài
thềm lục địa Việt Nam vượt quá 200
hải lý lên Ủy ban Ranh giới thềm lục
địa của Liên Hợp quốc năm 2009?
Theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982, quốc gia ven biển có quyền mở rộng thềm lục địa của
mình ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải, nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý. Quốc gia
ven biển phải trình Báo cáo lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của
Liên Hợp quốc (Ủy ban RGTLĐ) do Công ước thành lập để xem
xét và đưa ra khuyến nghị. Ý kiến của Ủy ban RGTLĐ là ý kiến
cuối cùng và có giá trị bắt buộc.
Hội nghị lần thứ 11 các nước thành viên Công ước 1982 họp
từ ngày 14 đến 18/5/2001 đã quyết định: đối với các nước thành
viên mà Công ước 1982 có hiệu lực trước ngày 13/5/1999 thì thời
hạn 10 năm sẽ được tính từ ngày này, và sẽ là ngày 13/5/2009. Nếu
sau thời hạn 10 năm mà quốc gia ven biển không nộp báo cáo (đầy
đủ hay sơ bộ) thì coi như quốc gia đó không có yêu cầu và từ bỏ
quyền của mình đối với thềm lục địa mở rộng quá 200 hải lý.
Để mở rộng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, Việt Nam phải nộp Báo cáo
quốc gia lên Ủy ban RGTLĐ của Liên Hợp quốc, trong đó nêu rõ
các bằng chứng khoa học, địa chất, địa mạo để chứng minh. Nếu
sau ngày 13/5/2009 Việt Nam không nộp Báo cáo quốc gia thì sẽ
mất quyền mở rộng ranh giới thềm lục địa.
134
Đầu tháng 5/2009, Việt Nam nộp Báo cáo chung với Ma-lai-xia
về khu vực thềm lục địa mở rộng ở phía Nam Biển Đông và Báo cáo
riêng của Việt Nam về khu vực thềm lục địa ở khu vực phía Bắc.
Quan điểm pháp lý cơ bản trong Báo cáo quốc gia của
Việt Nam là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và
thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982; tuân thủ Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 và tôn trọng các điều ước, hiệp định quốc tế về phân định
biển đã được ký kết giữa các nước liên quan; Báo cáo xác định ranh
giới ngoài thềm lục địa không ảnh hưởng đến việc phân định biển
giữa Việt Nam và các nước liên quan sau này.
Trong các ngày 27 và 28/8/2009, Việt Nam đã trình bày hai
Báo cáo này tại Ủy ban RGTLĐ, đồng thời đề nghị Ủy ban thành
lập các Tiểu ban để xem xét Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo
đúng các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 cũng như Quy tắc hoạt động của Ủy ban, bảo đảm các quyền
và nghĩa vụ chính đáng của quốc gia ven biển.
Việc Việt Nam nộp và trình bày tại Ủy ban RGTLĐ các Báo
cáo quốc gia xác định Ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam
là hoàn toàn phù hợp với các quy định của Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982 và để thực hiện quyền của một quốc
gia thành viên, như nhiều quốc gia thành viên khác đã làm.
135
Sơ đồ Ranh giới thềm lục địa Việt Nam
vượt quá 200 hải lý tại khu vực phía Bắc Biển Đông.
136
Sơ đồ Ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý tại
khu vực xây dựng Báo cáo chung Việt Nam - Ma-lai-xia.
137
51
Khái niệm đảo và các bãi cạn nửa
nổi nửa chìm được hiểu như thế
nào? Chế độ pháp lý của chúng?
Điều 121 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 định nghĩa “một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao
bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”.
Điều 13 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 định nghĩa “các bãi cạn nửa nổi nửa chìm là các vùng đất nhô
cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra,
khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước”
Chế độ pháp lý của đảo: Các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo đúng các quy
định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 áp dụng
cho các lãnh thổ đất liền khác. Các đảo đá “không thích hợp cho
con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Chế độ pháp lý của các bãi cạn nửa nổi nửa chìm: Các bãi
này đóng vai trò nhất định trong việc vạch đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải. Khi toàn bộ hoặc một phần bãi cạn nửa
nổi nửa chìm ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không
vượt quá chiều rộng lãnh hải thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên
các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải; khi nó hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo
một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì chúng không
có lãnh hải riêng và các đường cơ sở thẳng chỉ được kéo đến hay
138
xuất phát từ các bãi này khi trên đó có những đèn biển hoặc các
thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước và việc vạch các
đường cơ sở đó được sự thừa nhận chung của quốc tế.
52
Khái niệm Quốc gia quần đảo, quần
đảo theo quy định của Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã dành
một phần (Phần IV), gồm các điều 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53,
54, để quy định về phạm vi và chế độ pháp lý của Quốc gia quần
đảo và quần đảo. Theo đó, Quốc gia quần đảo là Quốc gia hoàn
toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có thể bao gồm
một số đảo khác nữa. Còn quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các
bộ phận của các đảo, các vùng nước nối giữa và các thành phần tự
nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành một
thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế
về mặt lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất là tại Điều 47, Công ước quy định
về Đường cơ sở quần đảo: Quốc gia quần đảo có thể vạch các đường
cơ sở thẳng của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa
nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo, với điều kiện là tuyến
các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu
vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở
giữa tỷ số 1/1 và 9/1. Chiều dài của các đường cơ sở này không
vượt quá 100 hải lý; hoặc có thể có chiều dài tối đa là 125 hải lý,
nếu có 3% tổng số đường cơ sở bao quanh một quần đảo có chiều
dài lớn hơn 100 hải lý; tuyến các đường cơ sở này không được tách
xa rõ rệt đường bao quanh quần đảo. Các đường cơ sở này cũng
139
không được kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm,
trừ trường hợp trên đó có xây các đèn biển hay các thiết bị tương tự
thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay
một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không
vượt quá chiều rộng lãnh hải… Với những nội dung này thì rõ ràng
Công ước chỉ quy định cách vạch đường cơ sở thẳng cho Quốc gia
quần đảo, chứ không quy định cách vạch đường cơ sở cho các quần
đảo không phải là quốc gia quần đảo. Điều đó được hiểu là cách
vạch đường cơ sở tại các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia
ven biển ở cách quốc gia đó một khoảng cách vượt quá chiều rộng
lãnh hải thì sẽ phải tuân thủ các quy định tại Phần VIII, Điều 121:
Chế độ các đảo.
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa của Việt Nam
cũng phải tuân thủ quy định này của Công ước để vạch đường cơ
sở và xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng.
53
Điều
Các nhà giàn DK1 của Việt Nam đã
được xây dựng trên các bãi ngầm
nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế
và trên thềm lục địa Việt Nam có
theo đúng quy định của Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 không? Phạm vi và quy chế bảo
vệ, quản lý các công trình này như
thế nào?
60, Công ước Luật Biển 1982, đã quy định: Trong
vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành
xây dựng, khai thác và sử dụng: các đảo nhân tạo, các thiết bị và
công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các
140
mục đích kinh tế khác… Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc
biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó, kể cả
quyền tài phán về luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an
ninh và nhập cư.
Việc xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình đó phải
được thông báo theo đúng thủ tục, phải có các phương tiện thường
trực để báo hiệu sự tồn tại của chúng. Nếu các thiết bị đó đã bỏ hoặc
không dùng nữa thì phải tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải…
Quốc gia ven biển có thể lập ra xung quanh các công trình đó
những khu vực an toàn có phạm vi không vượt quá 500 m xung
quanh chúng tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các công
trình và đều phải được thông báo theo đúng thủ tục. Tất cả các tàu
thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các quy
phạm quốc tế liên quan đến hàng hải trong khu vực gần các công
trình và các khu vực an toàn đó.
Tuy nhiên không được xây dựng các công trình nhân tạo và
lập các khu vực an toàn xung quanh chúng ở nơi có nguy cơ gây trở
ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là
thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Các công trình nhân tạo này không được hưởng quy chế các
đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự hiện diện của chúng
không có tác động gì đối với việc hoạch định lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việc xây dựng và bảo vệ các công trình nhân tạo trên thềm
lục địa cũng phải tuân thủ các quy định nói trên, với những sửa đổi
cần thiết về chi tiết (mutatis mutandis).
141
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được 15 nhà giàn DK1
trên các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam như: bãi Phúc Tần, Phúc Nguyên, Tư Chính, Quế Đường,
Vũng Mây, Huyền Trân. Việt Nam đang sử dụng chúng vào những
mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường
biển, thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí theo đúng quy định của
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam không
cố ý biến các bãi cạn này thành các đảo nổi và cố tình gán ghép
chúng trở thành một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Việt Nam
cho rằng mọi hành vi cố ý và gán ghép đó là hoàn toàn sai trái
trong việc giải thích và áp dụng Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, cần phải lên án, bác bỏ.
54
Khái niệm và chế độ pháp lý của
vùng biển quốc tế (Biển cả)?
Điều 3 Luật Biển Việt Nam về giải thích từ ngữ có quy định
“Vùng biển quốc tế là tất cả các vùng biển nằm ngoài vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác, nhưng không
bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển”.
Tuy nhiên, trong Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 không có khái niệm “vùng biển quốc tế” mà chỉ có khái niệm
“Biển cả” được quy định chi tiết tại phần VII của Công ước. Điều
86 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định
142
biển cả là “tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của quốc gia cũng như không
nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo”. Do
vậy, thuật ngữ “vùng biển quốc tế” (theo Luật biển Việt Nam) hay
“biển cả” (theo Công ước) chỉ là một và được áp dụng đối với cột
nước bên trên đáy và lòng đất đáy đại dương.
Chế độ pháp lý của vùng biển quốc tế (biển cả) là tự do biển
cả, nghĩa là tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, đều
được phép sử dụng vùng biển quốc tế. Quyền tự do trên biển (điều
87 của Công ước) bao gồm: Tự do hàng hải; tự do hàng không; tự
do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ phần
VI (về thềm lục địa); tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các
thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân
thủ phần VI (về thềm lục địa); tự do đánh bắt hải sản; tự do nghiên
cứu khoa học với điều kiện tuân thủ các phần VI (về thềm lục địa)
và VIII (chế độ các đảo).
Công ước cũng lưu ý mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự
do biển cả phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên
vùng biển quốc tế của các quốc gia khác (khoản 2 điều 87).
55
Quy chế pháp lý của Vùng theo
Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982?
Điều 1 Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982
định nghĩa rõ thuật ngữ “Vùng” là đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia” (có thể hiểu
143
là nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển). Vùng và tài
nguyên của nó là di sản chung của loài người (điều 136 của Công
ước) và do vậy “không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện
chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở một bộ phận nào đó của
Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào
và không một tự nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể chiếm đoạt
bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng.
Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền
thuộc chủ quyền nào, cũng như không một hành động chiếm đoạt
nào được thừa nhận” (khoản 1 điều 137 của Công ước).
Tất cả các di vật khảo cổ và lịch sử tìm thấy trong Vùng, đều
được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể loài người
(điều 149). Mọi hoạt động trong Vùng được tiến hành là vì lợi ích
của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các
quốc gia.
Việc thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng được tiến
hành thông qua Cơ quan quyền lực (the Authority) (điều 137),
được hiểu là cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương (trụ sở
ở Jamaica). Cơ quan này đảm bảo việc phân chia công bằng
những lợi ích tài chính và kinh tế do các hoạt động được tiến hành
trong Vùng.
Cơ quan quyền lực có quyền định ra các quy tắc, quy định
cũng như các thủ tục thích hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục
đích hoà bình, cho việc nghiên cứu khoa học biển, chuyển giao kỹ
thuật, bảo vệ môi trường biển, bảo vệ sự sống của con người.
144
Cơ cấu tổ chức của cơ quan quyền lực được quy định cụ thể,
chi tiết hơn trong Thoả thuận liên quan đến việc thực hiện Phần XI
(Vùng) của Công ước, có hiệu lực ngày 28/7/1996 và được coi là
một bộ phận của Công ước.
56
Các quốc gia không có biển được
hưởng những quyền gì trên biển?
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 dành hẳn
một phần (Phần X) và 9 điều (từ điều 124 đến điều 132) để quy
định về quyền của quốc gia không có biển đi ra biển và từ biển vào,
và tự do quá cảnh. Theo đó, quốc gia không có biển có nghĩa là mọi
quốc gia không có bờ biển.
Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và đi từ biển
vào để sử dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các
quyền liên quan đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản
chung của loài người. Vì mục đích ấy, các quốc gia đó được hưởng
tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các quốc gia quá cảnh bằng mọi
phương tiện vận chuyển (khoản 1 điều 125). Việc vận chuyển quá
cảnh không phải nộp thuế quan, thuế hay mọi khoản lệ phí khác,
ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc biệt liên quan đến
việc vận chuyển đó (khoản 1 điều 127).
Quốc gia không có biển thực hiện quyền đi ra biển thông qua
những thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực với quốc gia
quá cảnh. Quốc gia không có biển có quyền có hạm đội treo cờ của
145
mình. Trong các cảng biển, tàu mang cờ của quốc gia không có
biển được hưởng sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác.
Quốc gia quá cảnh là quốc gia có hay không có bờ biển, ở
giữa một quốc gia không có biển và biển, mà việc vận chuyển quá
cảnh phải đi qua quốc gia đó (tiểu mục mục b, khoản 1 điều 124).
Quốc gia quá cảnh có quyền định ra mọi biện pháp cần thiết để
đảm bảo rằng, các quyền và điều kiện thuận lợi được quy định vì
lợi ích của quốc gia không có biển và không hề đụng chạm đến các
quyền lợi chính đáng của quốc gia quá cảnh.
Ngoài ra, điều 69 của Công ước cũng quy định quốc gia
không có biển có quyền tham gia khai thác một phần thích hợp số
dư các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền kinh tế của các
quốc gia ven biển trong vùng một phần khu vực hoặc khu vực, theo
một thể thức công bằng, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý
thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan theo đúng điều này và
các điều 61, 62 của Công ước (liên quan đến việc bảo tồn các
nguồn lợi sinh vật và khai thác các tài nguyên sinh vật).
57
Chủ quyền quốc gia trên biển giảm
dần từ đất liền hướng ra biển như
thế nào?
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các
vùng biển của quốc gia ven biển theo thứ tự xa dần đất liền bao
gồm: trên bề mặt có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và ở dưới đáy có thềm lục địa.
146
- Tại vùng nước nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền
hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình, tức là
quyền đặc thù của một quốc gia độc lập, quyền tối cao của quốc gia
thực hiện trong phạm vi vùng biển thuộc quốc gia đó.
- Trong vùng lãnh hải: quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền
hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh hải. Tuy nhiên, chủ quyền này
không còn là tuyệt đối như chủ quyền tại vùng nước nội thủy vì tàu
thuyền các nước khác được phép đi qua không gây hại trong lãnh
hải. Quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định
việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi
qua lãnh hải nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích
của mình.
- Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển thực hiện
sự kiểm soát cần thiết nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi về
hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế, về
di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.
- Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia có:
(i) Quyền chủ quyền về việc: thăm dò và khai thác, bảo tồn
và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc phi sinh vật,
của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai
thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ
nước, hải lưu và gió.
(ii) Quyền tài phán về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân
tạo, các thiết bị và công trình; Nghiên cứu khoa học về biển; Bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển.
147
Tại vùng biển này, các quốc gia khác cũng có quyền tự do
hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm
cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích hợp pháp
khác phù hợp với các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982.
Đồng thời, cũng tại vùng biển này, quốc gia ven biển còn có
các nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn, quản lý
và duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế tránh
không bị ảnh hưởng do khai thác quá mức.
- Tại thềm lục địa, quốc gia ven biển thực hiện các quyền
thuộc chủ quyền về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiên của mình. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục
địa tồn tại một cách “nghiễm nhiên”, không phụ thuộc vào sự
chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ
ràng nào.
Tuy nhiên, khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải
lý quốc gia ven biển có nghĩa vụ đóng góp tài chính theo quy định
của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việc quốc
gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa
không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các
quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận. Ngoài ra, các quốc gia
khác đều có quyền lắp đặt cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa sau
khi thỏa thuận với quốc gia ven biển.
- Ở Biển cả và Vùng, quốc gia ven biển không có chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia mà chỉ được hưởng
quyền tự do biển cả và các lợi ích từ Vùng đem lại bình đẳng với tất
cả các quốc gia khác.
148
Như vậy, càng xa đất liền, chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của quốc gia ven biển biển càng giảm dần cho tới
khi kết thúc ở ranh giới ngoài của thềm lục địa.
58
Theo Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982, các tranh
chấp trên biển được giải quyết theo
các cơ chế nào?
Điều 279 của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 quy định: “Các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ giải
quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng
Công ước 1982 bằng phương pháp hoà bình theo đúng điều 2 khoản
3 của Hiến chương Liên Hợp quốc và vì mục đích này, cần phải tìm
ra các giải pháp bằng phương pháp hoà bình đã được nêu ở điều 33,
khoản 1 của Hiến chương”.
Để thực hiện, các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành các cuộc
trao đổi về quan điểm, về cách giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng hay bằng các phương pháp hoà bình khác; hoặc yêu cầu quốc
gia khác hoặc các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hoà giải.
Trong trường hợp khi tranh chấp không thể giải quyết được
bằng đàm phán, các quốc gia được quyền lựa chọn một hay nhiều
biện pháp sau để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước (điều 287): Toà án quốc tế về Luật
Biển; Toà án Pháp lý quốc tế; một toà Trọng tài được thành lập
theo đúng phụ lục VII (trọng tài); một toà Trọng tài đặc biệt được
149
thành lập theo đúng phụ lục VIII (trọng tài đặc biệt) để giải quyết
một hay nhiều loại tranh chấp đã được quy định rõ trong đó.
Tuy nhiên, Điều 298 của Công ước cũng quy định một quốc
gia có thể tuyên bố bằng văn bản không chấp nhận một hay nhiều
thủ tục giải quyết nêu trên liên quan đến phân định các vùng biển
giữa các quốc gia; các tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch sử;
các tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự; các tranh chấp
liên quan đến hành động bắt buộc chấp hành đã được thực hiện
trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền; các tranh chấp mà
Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc có trách nhiệm giải quyết.
59
Các quyền tự do trên biển cả (vùng
biển quốc tế)?
Các quyền tự do trên biển cả được quy định tại điều 87 Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Theo đó, quyền tự do
trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định
của Công ước và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Trên biển cả, các quốc gia, dù có biển hay không có biển, đều có quyền:
- Tự do hàng hải;
- Tự do hàng không;
- Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm với điều kiện tuân
thủ các quy định của Công ước;
150
- Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được
pháp luật quốc tế cho phép với điều kiện tuân thủ các quy định của
Công ước;
- Tự do đánh bắt hải sản với điều kiện tuân thủ các quy định
của Công ước về bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của
biển cả;
- Tự do nghiên cứu khoa học với điều kiện tuân thủ các phần
về thềm lục địa và nghiên cứu khoa học biển của Công ước;
Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến
lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia
khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quan
đến hoạt động trong Vùng.
60
Phân định biển được hiểu như thế
nào? Các nguyên tắc cơ bản trong
phân định biển? Lập trường của Việt
Nam về vấn đề phân định biển?
Phân định biển là một hoạt động mang tính quốc tế nhằm
hoạch định đường biên giới biển (nội thủy, lãnh hải), ranh giới biển
(vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) giữa hai hay nhiều quốc
gia có bờ biển đối diện hay tiếp giáp nhau thông qua đàm phán,
trung gian hoặc các cơ chế tài phán quốc tế khác.
Đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, Điều 15 của Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định: Khi hai quốc
gia có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được
quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến, trừ khi có sự
thỏa thuận ngược lại.
151
Đối với việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa, Điều 74 và 83 của Công ước 1982 quy định: Việc
hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa
các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện
bằng con đường thoả thuận theo đúng pháp luật quốc tế như đã
được nêu ở điều 38 của Quy chế Toà án quốc tế, để đi tới một giải
pháp công bằng.
Như vậy, nguyên tắc cơ bản trong phân định biển là nguyên
tắc thỏa thuận và nguyên tắc công bằng.
Khoản 3, Điều 4 Luật Biển Việt Nam 2012 khẳng định: Nhà
nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước
khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế. Trong
thực tiễn phân định biển với các nước có liên quan, lập trường nhất
quán của Việt Nam là căn cứ luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc
biệt là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tính tới
các hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên trong khu vực phân định để đạt
được một giải pháp công bằng mà các bên đều chấp nhận được.
61
Vài nét về yêu sách “đường lưỡi bò”
(hay “đường 9 khúc đứt đoạn”) của
Trung Quốc?
Ngày 7/5/2009, Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng Thư ký
Liên Hợp quốc phản đối việc Việt Nam và Ma-lai-xia nộp Báo cáo
chung về ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh
152
giới thềm lục địa của Liên Hợp quốc theo quy định của Công ước
Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982, kèm theo công hàm này là một
bản đồ thể hiện yêu sách “đường lưỡi bò” trên Biển Đông (Bản đồ
kèm theo).
Trong công hàm viết: “Trung Quốc có chủ quyền không thể
tranh cãi đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông)
và các vùng nước kế cận, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất đáy
biển ở đó (kèm theo bản đồ).
Bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” kèm theo công hàm ngày
7/5/2009 là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua thể hiện quan
điểm chính thức của Trung Quốc về biên giới biển theo yêu sách
đầy tham vọng của mình và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính
thức công bố bản đồ "đường lưỡi bò" với toàn thế giới.
“Đường lưỡi bò", “đường chữ U" hay “đường chín đoạn"... là
những cách gọi khác nhau mà các học giả trên thế giới dùng để chỉ
yêu sách phi lí của Trung Quốc, chạy sát bờ biển của các nước có
chung Biển Đông, có đoạn chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 50
đến 100 km. Đường này còn chạy sát bãi James Shoal (Tăng Mẫu)
của Ma-lai-xia và đảo Natuna của In-đô-nê-xia, đảo Luzong thuộc
quần đảo Phi-líp-pin, và chiếm đến 80% diện tích Biển Đông.
“Đường lưỡi bò” ban đầu gồm 11 đoạn. Năm 1953 đường 11 đoạn
đã được điều chỉnh thành 9 đoạn, bỏ 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ,
gần đây nhất là 10 đoạn (4/2013).
153
Tháng 2 năm 1947, Bộ nội vụ Trung Hoa Dân quốc đã cho
xuất bản Bảng tài liệu tra cứu tên cũ của các đảo biển ở Biển Đông,
trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau đó, tháng 1 năm 1948, Bộ Nội vụ
nước Trung Hoa Dân quốc công bố một bản đồ có tên Nanhai
zhudao weizhi tu (Nam đảo chư hải vị trí đồ - Bản đồ các đảo trên
Nam Hải), tháng 2 năm 1948 bản đồ này được xuất bản chính thức,
trên bản đồ này có xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là
đường hình chữ “U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” bởi
nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống Biển Đông, đường này
được thể hiện trên bản đồ lúc này là một đường đứt khúc bao gồm
11 đoạn.
Năm 1949, chính quyền Tưởng Giới Thạch thất bại trước Bắc
Kinh phải chạy ra đảo Đài Loan, và cũng từ đó, nước CHND Trung
Hoa ra đời, quốc gia này sau đó thay thế Cộng hòa Trung Hoa trở
thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp quốc.
Năm 1949, CHND Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong
đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như bản đồ trước đó gồm
11 đoạn.
Chính phủ Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa đưa ra được tọa
độ chính xác của các đường trong yêu sách.
154
Bản đồ Trung Quốc đính kèm theo Công hàm gửi Liên Hợp quốc
ngày 07 tháng 5 năm 2009
155
62
Một số nhận xét về “đường lưỡi bò”
(hay “đường 9 khúc đứt đoạn”) nhìn
từ công pháp quốc tế?
Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không thể được
coi là yêu sách nghiêm túc của một quốc gia đối với một vùng biển
rộng lớn vì nó hoàn toàn không có cơ sở lịch sử, pháp lý và thực
tiễn, với những lý do sau:
Thứ nhất, Trung Quốc đòi hỏi “quyền chủ quyền và quyền tài
phán” đối với đường lưỡi bò, có nghĩa là đòi hỏi một vùng biển có
quy chế pháp lý tương tự với quy chế của vùng đặc quyền về kinh tế
và thềm lục địa theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982 (có chiều rộng tối đa là 200 hải lý đối với vùng đặc quyền
kinh tế và 350 hải lý đối với thềm lục địa). Điều này trái với Công
ước (Trung Quốc cũng là một bên tham gia năm 1996) vì vùng biển
mà đường lưỡi bò chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, nằm cách
xa bờ biển Trung Quốc hàng nghìn km (chỗ xa nhất). Theo quy
định của Công ước, các vùng biển này không thể là vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc.
Thứ hai, cho đến trước khi Trung Quốc yêu sách chính thức
về đường lưỡi bò (tháng 5/2009), đường này không hề được đề cập,
hay được quy định trong các văn bản pháp luật của Trung Quốc
như: Tuyên bố về Lãnh hải năm 1958, Luật Lãnh hải và Vùng tiếp
giáp năm 1992, Luật về đường cơ sở lãnh hải năm 1996, Luật về
Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa năm 1998...
156
Thứ ba, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm
phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, đã xác lập theo
đúng quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982, của các quốc gia khác ven Biển Đông như Việt Nam, Phi-líp-pin,
In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia, Bru-nây, cũng là thành viên của Công ước.
Thứ tư, thời điểm xuất hiện của đường lưỡi bò còn chưa được
các tác giả Trung Quốc thống nhất, lúc thì nói là năm 1948, lúc thì
nói là năm 1947, có lúc lại nói năm 1914, nguồn gốc đường này chỉ
là một dạng xuất bản tư nhân, lúc thì vẽ 11 đoạn, lúc thì vẽ 9 đoạn,
gần đây nhất là 10 đoạn (4/2013) một cách tùy tiện, không có tọa
độ rõ ràng, không thể xác định trên thực tế. Chính phủ Trung Quốc
cho đến nay vẫn giữ im lặng về việc giải thích tọa độ chính xác của
các đường đứt đoạn trong yêu sách.
Thứ năm, Trung Quốc không chứng minh được là các chính
quyền của họ đã thực thi chủ quyền như thế nào trong phạm vi được
bao bọc bởi “đường lưỡi bò”. Thực tế từ trước đến nay các nước
xung quanh Biển Đông vẫn tiến hành thực thi chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của mình theo các quy định
của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; các nước
trong và ngoài khu vực vẫn tiến hành các hoạt động tự do hàng
không, tự do hàng hải bình thường trong khu vực đường lưỡi bò
(trong đó có các vùng biển nằm ngoài các vùng biển và thềm lục
địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
của các quốc gia xung quanh Biển Đông).
157
63
Quan điểm của các nước trong,
ngoài khu vực và các học giả quốc tế
về “đường lưỡi bò” (hay “đường 9
khúc đứt đoạn”) của Trung Quốc?
Kể từ khi chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên
Hợp quốc, Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối của các nước
trong và ngoài khu vực. Các nước như Việt Nam, In-đô-nê-xia,
Phi-líp-pin đã gửi công hàm chính thức phản đối yêu sách của
Trung Quốc. Xin-ga-po cũng lên tiếng đề nghị Trung Quốc phải
làm rõ các yêu sách biển của mình. Mỹ đã gián tiếp bác bỏ yêu
sách này qua việc bác bỏ các yêu sách biển không xuất phát từ cấu
trúc đất. Nhật Bản, Ấn Độ, Ôtx-trây-lia và nhiều nước khác bày tỏ
quan ngại về tự do an toàn hàng hải trên vùng Biển Đông. Nhiều
học giả có nghiên cứu sâu về luật biển ở các nước như Pháp, Mỹ,
Ca-na-đa, Ôtx-trây-lia, Bỉ, Phi-lip-pin, In-đô-nê-xia, Xin-ga-po…
đã có nhiều bài viết vạch rõ tính phi lý, mâu thuẫn, mập mờ và
ngang ngược thể hiện trong yêu sách này, trong nhiều hội thảo cũng
như trong các công trình nghiên cứu của mình (tham khảo thêm
Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông, TS. Trần Công Trục Chủ biên,
NXB Thông tin và Truyền thông, 2012).
Có thể nói, xét theo luật pháp quốc tế hiện đại cũng như luật
pháp quốc tế cổ điển, yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc hoàn
toàn không có cơ sở khoa học, lịch sử, không có giá trị pháp lý
quốc tế và không ai có thể chấp nhận được.
158
64
Lập trường của Việt Nam trong giải
quyết các vấn đề tranh chấp trên
Biển Đông?
Giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông là một quá
trình lâu dài, khó khăn, phức tạp vì liên quan đến nhiều nước, nhiều
bên. Giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và duy trì hoà bình, ổn
định ở Biển Đông là những vấn đề mang tính toàn cục. Giải quyết
tranh chấp và xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông cần được đặt
trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
trong chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập tự chủ, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ của ta với các nước.
Chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông thông qua biện pháp hoà bình trên tinh thần hiểu biết và tôn
trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đối với các vấn đề liên quan
đến hai nước Việt Nam - Trung Quốc (cửa Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa)
thì giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các bên khác
(Trường Sa), liên quan đến tự do hàng hải thì cần có sự bàn bạc của
các bên liên quan. Nếu các bên không giải quyết được bằng cơ chế
đàm phán thì cần phải giải quyết bằng các phương thức khác như
trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa
án Công lý Quốc tế, Tòa án Quốc tế về Luật Biển và các tòa trọng
tài. Trong khi chờ một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển
Đông, các bên liên quan cần nghiêm chỉnh thực hiện DOC; nỗ lực
duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không làm
phức tạp hóa tình hình, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực.
159
Việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải
ở Biển Đông là mối quan tâm chung của các nước trong và ngoài
khu vực, Việt Nam hoan nghênh nỗ lực và đóng góp của tất cả các
nước trong và ngoài khu vực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở
Biển Đông. Trên tinh thần đó, Việt Nam hoan nghênh và đánh giá
cao việc cộng đồng quốc tế có những đóng góp xây dựng nhằm bảo
vệ an ninh, an toàn hàng hải và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực
Biển Đông; phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực,
ủng hộ việc các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện pháp
hoà bình trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền của
các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa phù hợp với luật pháp quốc tế, triển khai thực hiện đầy đủ và có
hiệu quả DOC và khuyến khích các bên xây dựng COC.
Về đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc,
Việt Nam không phản đối. Việc áp dụng giải pháp tạm thời theo
quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 có
trước khi các bên đàm phán để thống nhất được một ranh giới biển
cho những vùng chồng lấn được hình thành bởi các yêu sách do các
bên đưa ra theo các tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982. Tuy nhiên, Việt Nam không chấp nhận
“đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc là đường yêu sách để tạo
thành vùng chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam. Do vậy, không thể “cùng phát triển” trong khu vực được
tạo bởi “đường lưỡi bò” lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam.
Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục khai thác và bảo vệ các lợi
ích kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong đó có các
160
hoạt động của các công ty dầu khí. Việt Nam hoan nghênh và cam
kết tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nước ngoài có thực lực
và kinh nghiệm tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tài nguyên dầu
khí trong thềm lục địa Việt Nam.
65
Hãy cho biết rõ hơn về khái niệm
“giải quyết tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình”?
Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện
pháp hòa bình là xu hướng tất yếu không thể phủ nhận và được
tuyệt đại đa số các nước trên thế giới ủng hộ. Giải quyết các tranh
chấp giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình có thể hiểu là
(1) giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình (song
phương hoặc đa phương) trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế,
bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm đi tới một giải pháp công
bằng cho tất cả các bên, và (2) giải quyết các tranh chấp thông qua
trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài pháp quốc tế như Tòa
án Công lý Quốc tế, Tòa án Quốc tế về Luật Biển và các tòa trọng
tài khác.
Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới (thậm
chí cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao hết sức thân thiện với
nhau) sau một thời gian đàm phán không đạt kết quả đã đưa các
tranh chấp ra giải quyết tại các tòa án quốc tế và thực hiện nghiêm
chỉnh các phán quyết của Tòa. Các vụ điển hình đã được giải quyết
tại Tòa án Công lý quốc tế là: Phân định vùng đặc quyền kinh tế ở
vịnh Maine giữa Hoa Kỳ và Ca-na-đa năm 1984; giải quyết tranh
161
chấp chủ quyền các đảo giữa Ma-lai-xia và In-đô-nê-xia năm 2003,
giữa Xin-ga-po và Ma-lai-xia năm 2008…
Việc ngày 22/1/2013, Phi-lip-pin khởi kiện Trung Quốc ra
Tòa án Trọng tài quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII của
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 cũng là một biện
pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển được nhiều nước
và cộng đồng quốc tế hoan nghênh, ủng hộ và đã được cơ quan tài
phán quốc tế về Luật Biển của Liên Hợp quốc thụ lý bằng việc đã
hoàn tất thủ tục đề cử các thẩm phán cho tòa án trọng tài quốc tế về
Luật Biển.
66
Những Thỏa thuận và Hiệp định chủ
yếu về phân định và hợp tác trên
biển mà Việt Nam đã đàm phán, ký
kết với các nước láng giềng? Còn
những vấn đề gì trên biển Việt Nam
cần tiếp tục giải quyết với các nước
liên quan?
Đến nay, Việt Nam đã ký một số Thỏa thuận và Hiệp định
về phân định và hợp tác trên biển với các nước láng giềng, cụ thể
là: Hiệp định về vùng nước lịch sử với Cam-pu-chia năm 1982;
Hiệp định phân định ranh giới biển với Thái Lan năm 1997; Hiệp
định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
Hiệp định hợp tác nghề cá với Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ năm
2000; Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa với In-đô-nê-xia
năm 2003; Thỏa thuận hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng
lấn với Ma-lai-xia năm 1992:
162
- Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước CHXHCN Việt
Nam và nước CHND Cam-pu-chia ký ngày 7/7/1982 gồm 3 điều đã
giải quyết được những vấn đề hết sức quan trọng như sau:
- Hiệp định đã xác định giới hạn cụ thể của vùng nước lịch sử
thuộc chế độ nội thủy chung của hai nước Việt Nam và Cam-puchia. Ngoài vùng nước này là các vùng biển thuộc chủ quyền và
quyền chủ quyền riêng biệt của mỗi nước. Đây là điều hết sức quan
trọng tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để hai nước quản lý, bảo vệ các
vùng biển của mình.
- Hai bên thoả thuận “lấy đường Brévié được vạch ra năm
1939 làm đường phân chia đảo trong khu vực này”. Đây là lần đầu
tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các bên đối với các đảo giữa
hai nước. Hiệp định này đã nâng đường Brévié từ ranh giới quản lý
hành chính và cảnh sát thành đường phân chia chủ quyền đảo giữa
hai nước, nhưng cũng xác nhận giữa hai nước chưa có đường biên
giới biển.
- Hai bên “sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp trên cơ sở
bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau để hoạch định
đường biên giới biển giữa hai nước trong và ngoài vùng nước lịch
sử”. Sau khi ký Hiệp định vùng nước lịch sử hai bên tiếp tục đàm
phán để phân định đường biên giới và ranh giới trên biển giữa hai
nước trong và ngoài vùng nước lịch sử.
- Việc tuần tiễu, kiểm soát trong vùng nước lịch sử này sẽ do
hai bên cùng tiến hành. Để đảm bảo an ninh trật tự chung trong
vùng nước lịch sử, hải quân hai nước đã có thoả thuận và tiến hành
tuần tra chung.
163
- Việc đánh bắt hải sản của nhân dân địa phương trong vùng
này vẫn tiếp tục theo tập quán làm ăn từ trước tới nay. Như vậy
nhân dân hai nước có quyền khai thác nguồn lợi hải sản một cách
hợp pháp trong vùng nước lịch sử. Công dân của nước khác không
được phép vào đánh bắt trong vùng nước này.
- Đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như dầu khí,
khoáng sản, v.v... trong vùng nước lịch sử sẽ do hai bên cùng thoả
thuận; khi không có thoả thuận không bên nào được đơn phương tiến
hành các hoạt động khai thác tài nguyên trong vùng nước lịch sử.
Theo Hiệp ước năm 1983 về nguyên tắc giải quyết vấn đề
biên giới giữa Việt Nam và Cam-pu-chia, vào thời gian thích hợp
Việt Nam và Cam-pu-chia sẽ thương lượng để phân định ranh giới
biển giữa hai nước trong vùng biển này trên tinh thần bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau. Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 07/7/1982.
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ Vương quốc Thái Lan về phân định ranh giới trên biển
giữa hai nước trong vịnh Thái Lan ký ngày 9/8/1997 gồm 6 điều
với các nội dung chính như: quy định rõ tọa độ đường phân định
đơn nhất cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai
nước; thừa nhận quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của mỗi nước theo đường ranh giới
trên biển này; quy định việc khai thác tài nguyên thiên nhiên vắt
ngang đường biên giới; hiệp thương với Ma-lai-xia giải quyết khu
vực thềm lục địa chồng lấn giữa ba nước và giải quyết các tranh
chấp liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán, thương lượng.
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 27/2/1998.
164
Hiệp định giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND
Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ. Hiệp định này ký ngày
25/12/2000, gồm 11 điều với các nội dung chính như: xác định rõ
tọa độ địa lý 21 điểm trên đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, vùng thềm lục địa hai nước; quy định hai bên tôn trọng chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên tại các
vùng biển trong vịnh Bắc Bộ; quy định việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên vắt ngang đường phân định và giải quyết các tranh chấp
liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán, thương lượng.
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 15/6/2004.
Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa ký
ngày 25/12/2000 gồm 7 phần 22 điều với các nội dung chính như:
xác định phạm vi cụ thể của vùng đánh cá chung; xác định số lượng
tàu cá hàng năm, nghĩa vụ của công dân trên tàu khi đánh bắt trong
vùng đánh cá chung; việc xử lý các tình huống nảy sinh trong vùng;
xác định về dàn xếp quá độ; vùng đệm cho các tàu cá nhỏ; quy định
về Ủy ban Liên hợp nghề cá vịnh Bắc Bộ Việt - Trung.
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 30/6/2004.
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa In-đô-nê-xia về phân định ranh giới
thềm lục địa ký ngày 26/6/2003 gồm 6 điều với các nội dung chính
như: quy định tọa độ các điểm của đường phân định ranh giới thềm
lục địa hai nước; việc khai thác tài nguyên thiên nhiên dưới đáy
biển vắt ngang đường ranh giới; giải quyết các tranh chấp liên quan
đến Hiệp định thông qua thương lượng, đàm phán,…
165
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 29/5/2007.
Thỏa thuận hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn
giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Ma-lai-xia
ký ngày 05/6/1992 (có hiệu lực từ ngày ký): Việt Nam và Ma-lai-xia
có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn. Diện tích
vùng chồng lấn không lớn (khoảng 2.800 km2), nhưng có tiềm năng
về dầu khí. Hai bên thỏa thuận hợp tác thăm dò khai thác chung
vùng chồng lấn (MOU) như là giải pháp tạm thời trong khi chưa
phân định dứt điểm ranh giới. Các nguyên tắc hợp tác là: chia sẻ
đồng đều chi phí và phân chia công bằng lợi nhuận; hoạt động thăm
dò khai thác dầu khí do Petrovietnam và Petronas thực hiện trên cơ
sở các dàn xếp thương mại. Sau đó, hai công ty dầu khí hai nước đã
ký kết và triển khai thực hiện các dàn xếp thương mại. Sau này,
Việt Nam và Ma-lai-xia sẽ phân định dứt điểm ranh giới vùng
chồng lấn này.
Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng các biện
pháp hoà bình, không để ảnh hưởng đến quan hệ với các nước liên
quan. Trên tinh thần đó, trong thời gian tới ta tiếp tục tiến hành
đàm phán với Trung Quốc và các nước liên quan để giải quyết các
bất đồng và phân định ranh giới biển. Cụ thể là:
- Giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
với Trung Quốc và tranh chấp chủ quyền với các bên có liên quan
trên quần đảo Trường Sa.
- Trong việc phân định ranh giới trên biển, chúng ta sẽ:
+ Đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam
và In-đô-nê-xia;
166
+ Đàm phán phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh
tế giữa Việt Nam và Ma-lai-xia;
+ Đàm phán phân định thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam
- Ma-lai-xia - Thái Lan;
+ Đàm phán phân định các vùng biển giữa Việt Nam và
Cam-pu-chia trong vùng nước lịch sử;
+ Đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ
giữa Việt Nam - Trung Quốc.
67
Những nội dung chính của Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
giữa Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam và Chính phủ nước
CHND Trung Hoa đã được ký ngày
11/10/2011?
Ngày 11/10/2011, Trưởng đoàn đàm phán cấp chính phủ về
biên giới lãnh thổ hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên
biển giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước
CHND Trung Hoa (gọi tắt là Thỏa thuận) nhân chuyến thăm Trung
Quốc của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Việc ký kết Thỏa thuận có ý nghĩa hết sức quan trọng nhất là
trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang diễn biến hết sức phức
tạp. Thỏa thuận đã xác định được một số nguyên tắc cơ bản định
hướng cho việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bằng
biện pháp hòa bình.
167
Một là, Thỏa thuận đã xác định căn cứ vào luật pháp quốc tế,
nhất là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà cả
Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên để giải quyết các vấn
đề tranh chấp ở Biển Đông. Đây là một nội dung đặc biệt quan
trọng vì nó sẽ là cơ sở pháp lý để hai bên đi vào trao đổi giải quyết
vấn đề trên biển. Nếu hai bên tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc này
thì nhất định sẽ tìm ra được giải pháp công bằng hợp lý mà hai bên
có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
Điều 2 của Thỏa thuận cũng nêu rõ “cần tôn trọng đầy đủ các
chứng cứ pháp lý” nghĩa là những bằng chứng, tài liệu mang tính
pháp lý sẽ được lấy làm cơ sở chính để giải quyết các tranh chấp,
còn các yếu tố khác như lịch sử, địa hình… sẽ được xem xét như
một yếu tố bổ trợ trong quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này
hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc giải quyết các
tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên thế giới.
Hai là, Điều 3 của Thỏa thuận nêu rõ “trong tiến trình đàm
phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và
nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của
các bên ở Biển Đông” (DOC)”. Nội dung này có ý nghĩa quan
trọng đối với việc duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông.
Ba là, một nội dung hết sức quan trọng thể hiện rõ quan điểm
nhất quán của Việt Nam về phương thức giải quyết vấn đề trên biển
là cả song phương lẫn đa phương đã được ghi nhận trong Điều 3
của Thỏa thuận là “đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương
168
hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp
thương với các bên tranh chấp khác”. Điều này có nghĩa là Việt
Nam - Trung Quốc chỉ có thể giải quyết các vấn đề tranh chấp song
phương giữa hai nước, như tranh chấp Hoàng Sa, cửa Vịnh Bắc Bộ,
không thể giải quyết các tranh chấp liên quan đến các bên khác,
như vấn đề Trường Sa. Đây cũng là lần đầu tiên Trung Quốc ký kết
một văn bản chính thức trong đó nói rõ tranh chấp liên quan đến
nhiều bên thì phải trao đổi ý kiến với các bên đó. Nội dung này của
thỏa thuận đã mở ra khả năng về giải quyết đa phương tranh chấp ở
Biển Đông. Điều này là phù hợp với quan điểm chung của các nước
trong và ngoài khu vực, phù hợp với thực tế tranh chấp ở Biển
Đông và phù hợp với xu thế giải quyết các tranh chấp liên quan đến
nhiều bên trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Bốn là, một nội dung đáng chú ý trong Thỏa thuận là tại điều 4
hai bên xác định “trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu
dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử
bình đẳng, cùng có lợi, hai bên bàn bạc thảo luận về những giải
pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập
trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu
và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc
đã nêu tại Điều 2 của Thỏa thuận này”.
Với nội dung này, hai bên đã đưa ra khả năng về một giải
pháp mang tính quá độ đối với các khu vực tranh chấp, bao gồm cả
việc hợp tác cùng phát triển theo nguyên tắc đã nêu ở Điều 2 của
Thỏa thuận, nghĩa là căn cứ vào luật pháp quốc tế, Công ước Luật
Biển năm 1982. Giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển
169
là phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Dàn xếp tạm thời về
“hợp tác cùng phát triển” được khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83
của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Theo đó, các
quốc gia khi chưa tìm được giải pháp phân định thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế thì có thể thỏa thuận về các dàn xếp tạm
thời mang tính thực tiễn; các dàn xếp tạm thời không làm phương
hại đến kết quả phân định cuối cùng.
Như vậy, giải pháp quá độ tạm thời, hợp tác cùng phát triển
theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 là phải tôn
trọng vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tối thiểu của mỗi quốc
gia ven biển. Do vậy, hợp tác cùng phát triển chỉ có thể được thực
hiện ở những khu vực chồng lấn được hình thành bởi yêu sách mà
các bên đưa ra theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982.
Ngoài ra, Thỏa thuận đã nêu ra một số nguyên tắc khác là
giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ
trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác
trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên
cứu khoa học, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống,
giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau
để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn. Hai
bên cũng đã nhất trí cơ chế gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán
biên giới cấp Chính phủ 02 lần/năm; thiết lập cơ chế đường dây
nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao
đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.
170
68
Để tạo
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện nay có những văn bản quy
phạm pháp luật cơ bản nào liên
quan đến biển đảo?
điều kiện cho việc quản lý, khai thác, bảo vệ tài
nguyên cũng như giữ vững chủ quyền biển, đảo, đến nay, Việt Nam
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến biển, trong đó
có thể kể đến một số văn bản quan trọng sau:
- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam các năm 1980, 1992.
- Luật Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam số
06/2003/QH11 năm 2003.
- Luật Dầu khí năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 ngày 28/6/2000; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 ngày
03/6/2008
- Luật Thủy sản số 17/2003/QH11.
- Luật Hàng hải Việt Nam số 40/2005/QH11.
- Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua
ngày 21/6/2012.
- Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/6/1994 về việc phê chuẩn
Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp quốc.
- Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam số
03/2008/PL-UBTVQH 12.
171
- Tuyên bố ngày 12/05/1977 của Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam.
- Tuyên bố ngày 12/11/1982 của CP nước CH XHCN Việt
Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
- Nghị định số 25/2009/NĐ-TTg ngày 26/3/2009 của Chính
phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển,
hải đảo.
- Quyết định số 568/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của Thủ tướng
về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam
đến năm 2020.
69
Quá trình xây dựng và ý nghĩa của
việc ban hành Luật Biển Việt Nam?
Phạm vi điều chỉnh và tóm tắt Luật
Biển Việt Nam?
Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa
IX đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,
công tác xây dựng Luật Biển Việt Nam đã được đưa vào Chương
trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa X. Trên cơ sở quy định
của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tham khảo
các thông lệ quốc tế và thực tiễn của nhiều quốc gia ven biển, dựa
trên các yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh,
quốc phòng của nước ta, trải qua 3 nhiệm kỳ Quốc hội khóa X, XI,
172
XII với nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, tới phiên họp ngày 21/6/2012
trong Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIII đã chính thức thông qua
Luật Biển Việt Nam với số phiếu tán thành là 99,8%.
Đây là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo nước ta. Lần đầu tiên nước ta
có một văn bản Luật quy định khá đầy đủ về chế độ pháp lý các
vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
quốc gia của Việt Nam theo đúng Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác và quản lý các
vùng biển, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập
quốc tế. Với Luật Biển Việt Nam, cùng với việc khẳng định chủ
trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp hòa
bình, Nhà nước ta đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế
giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, quyết tâm phấn đấu vì hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Luật Biển Việt Nam quy định về đường cơ sở, nội thủy,
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục
địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo
khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia
của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh
tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Luật Biển Việt Nam bao gồm 7 Chương và 55 Điều.
173
Chương I: Những quy định chung gồm có 7 Điều quy định về
phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải thích từ ngữ,
nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ
biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lý nhà nước về biển.
Chương II: Vùng biển Việt Nam gồm có 14 Điều quy định về
việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc
chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc
quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam gồm có 20
Điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ
khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng
giao thông.
Chương IV: Phát triển kinh tế biển gồm có 5 Điều, quy định
các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh tế biển ưu tiên phát
triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu
đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương V: Tuần tra, kiểm soát trên biển gồm có 3 Điều quy
định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển; nhiệm vụ và phạm
vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.
Chương VI: Xử lý vi phạm gồm có 4 Điều quy định về dẫn
giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi
phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước ngoài… nhằm
đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan
có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.
174
Chương VII: Điều khoản thi hành: Luật Biển Việt Nam có
hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Chính phủ sẽ ban
hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao
ở trong Luật.
70
Hãy cho biết nội dung cơ bản của
Luật Biên giới Quốc gia của Việt Nam?
Ngày 17/6/2003, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Biên giới Quốc gia. Bộ luật này
mang số 06/2003/QH11, quy định về biên giới Quốc gia của nước
CHXHCN Việt Nam và có hiệu lực từ ngày 01/01/2004.
Luật Biên giới Quốc gia được xây dựng và ban hành căn cứ
vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10.
Luật gồm 6 chương, 41 điều, trong đó điều 1 xác định: “Biên
giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh
thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Luật Biên giới Quốc gia khẳng định biên giới quốc gia của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa
175
đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc
gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường quốc phòng và an ninh của đất nước. Luật được xây
dựng và ban hành nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về
biên giới quốc gia; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định
lâu dài với các nước láng giềng.
71
Luật Biên giới Quốc gia có những
điều, khoản nào liên quan đến lĩnh
vực biển, đảo?
Luật Biên giới Quốc gia được ban hành năm 2003, chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2004, quy định về các vấn đề liên
quan đến biên giới quốc gia. Luật gồm 6 chương 41 điều, trong đó
có 14 điều liên quan trực tiếp đến lĩnh vực biển, đảo. Cụ thể là:
Điều 1 đề cập tới bộ phận cấu thành biên giới quốc gia nước
ta trong đó có đưa ra các cụm từ: các đảo, quần đảo, quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, vùng biển;
Điều 2 (mục 2) đề cập chế độ pháp lý, quy chế quản lý và bảo
vệ vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
của nước ta phù hợp với Công ước Luật Biển 1982 và các điều ước
quốc tế khác mà Việt Nam tham gia;
Điều 4 đề cập khái niệm đường cơ sở, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam (mục 1, 2, 3, 4),
khái niệm đi qua không gây hại trong lãnh hải (mục 9);
176
Điều 5 (mục 2) đề cập tới việc xác định biên giới quốc gia
trên biển và ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa;
Điều 6 (mục 2) đề cập khu vực biên giới trên biển;
Điều 7 xác định “nội thủy” của Việt Nam;
Điều 8 nêu khái niệm “vùng nước lịch sử”;
Điều 9 xác định lãnh hải của Việt Nam;
Điều 11 nêu chủ trương của Nhà nước ta giải quyết các vấn
đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau;
Điều 15 đề cập việc quá cảnh qua biên giới vào vùng biển
nước ta phải tuân theo đường hàng hải đã được quy định;
Điều 18 quy định tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại
trong lãnh hải Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; tàu ngầm và các phương
tiện đi ngầm khác phải đi nổi và treo cờ quốc tịch;
Điều 19 quy định hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong
lãnh hải Việt Nam;
Điều 21 (mục 1) đề cập người, phương tiện, hàng hóa có thể
bị hạn chế hoặc tạm ngừng qua lại trong lãnh hải Việt Nam trong
trường hợp đặc biệt;
Điều 35 quy định nội dung quản lý nhà nước về biên giới
quốc gia trong đó bao gồm cả nội dung về biên giới biển.
177
72
Luật Thủy sản quy định về việc bảo
vệ thủy, hải sản như thế nào?
Điều 7, điều 8 và điều 9 thuộc Chương 2 của Luật Thủy sản
(2003) đã quy định:
1. Về công tác bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản:
Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống của
các loài thủy sản.
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thủy sản hoặc có các
hoạt động khác ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống, di cư,
sinh sản của các loài thủy sản phải tuân theo quy định của Luật
này, pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về tài nguyên nước
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tổ chức, cá nhân khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các
công trình có liên quan đến môi trường sống, di cư, sinh sản của các
loài thủy sản phải thực hiện việc đánh giá tác động môi trường theo
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tổ chức, cá nhân khai thác thủy sản bằng đặt đăng, đáy hoặc
bằng phương pháp ngăn, chắn khác ở các sông, hồ, đầm, phá phải
dành hành lang cho các loài thủy sản di chuyển theo quy định của
Ủy ban nhân dân địa phương.
178
2. Về bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản
Nhà nước có chính sách bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
đặc biệt là các loài thủy sản đang có nguy cơ tuyệt chủng, các loài
quý hiếm, các loài có giá trị kinh tế cao và các loài có ý nghĩa khoa
học; khuyến khích nghiên cứu khoa học để có các biện pháp phù
hợp nhằm phát triển nguồn lợi thủy sản; đầu tư sản xuất giống thủy
sản để thả vào môi trường sống tự nhiên và tạo ra các vùng cư trú
nhân tạo nhằm tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thực hiện việc bảo tồn, bảo vệ,
tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản theo quy định của Luật này
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn định kỳ công bố:
+ Danh mục các loài thủy sản đã được ghi trong sách đỏ Việt
Nam và các loài thủy sản khác bị cấm khai thác; danh mục các loài
thủy sản bị cấm khai thác có thời hạn và thời gian cấm khai thác;
+ Các phương pháp khai thác, loại nghề khai thác, ngư cụ bị
cấm sử dụng hoặc bị hạn chế sử dụng;
+ Chủng loại, kích cỡ tối thiểu của các loài thủy sản được
phép khai thác và mùa vụ khai thác;
+ Khu vực cấm khai thác và khu vực cấm khai thác có thời
hạn. Trong trường hợp cần thiết và được sự đồng ý của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương công bố bổ sung những nội dung cho phù
hợp với thực tế hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản tại địa phương.
179
73
Luật Dầu khí Việt Nam quy định về
việc bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên
dầu khí Việt Nam như thế nào?
Luật Dầu khí quy định về hoạt động tìm kiếm, thăm dò và
khai thác dầu khí trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam, được Quốc hội nước
ta thông qua tại kỳ họp thứ 03, khoá IX ngày 06 tháng 7 năm 1993
(sửa đổi năm 2000 và 2008). Theo Luật Dầu khí:
Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt
Nam và nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ để tiến hành các hoạt
động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư,
tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của các tổ chức, cá nhân
Việt Nam và nước ngoài tiến hành các hoạt động dầu khí ở Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động dầu khí phải sử dụng
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tuân thủ các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường, an toàn cho
người và tài sản (điều 4).
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động dầu khí phải có đề án
bảo vệ môi trường, thực hiện tất cả các biện pháp để ngăn ngừa ô
nhiễm, loại trừ ngay các nguyên nhân gây ra ô nhiễm và có trách
nhiệm khắc phục hậu quả do sự cố ô nhiễm môi trường gây ra
(điều 5).
180
Chính phủ Việt Nam cho phép tổ chức, cá nhân tiến hành các
hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm kiếm thăm dò và khai thác
khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên khác ngoài dầu khí trong diện
tích hợp đồng dầu khí theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các
hoạt động này không được gây cản trở và làm thiệt hại cho các hoạt
động dầu khí (điều 10).
Điều 30 của luật này cũng quy định, Nhà thầu ngoài nghĩa vụ
tuân thủ pháp luật Việt Nam, thực hiện các cam kết ghi trong hợp
đồng dầu khí, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế tài nguyên và các thuế
khác,… còn có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp bảo vệ môi
trường; thu dọn các công trình, thiết bị, phương tiện sau khi kết thúc
hoạt động dầu khí theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền.
74
Quá trình hình thành Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên trên Biển
Đông (DOC)?
Trước tình hình tranh chấp trên Biển Đông đang diễn biến
hết sức phức tạp có nguy cơ dẫn tới xung đột, đe dọa tới hòa bình,
an ninh và ổn định trong khu vực, năm 1992, các nước ASEAN đã
ra Tuyên bố về vấn đề Biển Đông, kêu gọi các bên kiềm chế không
sử dụng vũ lực, tuân thủ luật pháp quốc tế về biển, tăng cường hợp
tác xây dựng lòng tin. Năm 1996, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN
lần thứ 29 tại Gia-các-ta ra Tuyên bố chung bày tỏ quan ngại trước
những diễn biến trên Biển Đông, nhấn mạnh việc các bên liên quan
181
cần áp dụng các nguyên tắc của Hiệp ước thân thiện và hợp tác tại
Đông Nam Á năm 1976 (TAC) làm cơ sở để xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC - Code of Conduct)...
Tiếp đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội
(từ 15 đến 16/12/1998), các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí xây
dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Cuộc họp SOM ASEAN tại
Xin-ga-po (tháng 3/1999) đã giao cho Việt Nam và Phi-líp-pin
đồng dự thảo COC... Sau đó ASEAN và Trung Quốc triển khai
thương lượng về văn kiện này. Do có ý kiến khác nhau nên các bên
không nhất trí được về COC. Do vậy ASEAN và Trung Quốc thống
nhất văn bản dưới dạng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (Declaration on the Conduct of Parties - DOC).
Ngày 4/11/2002, trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 8 tại Phnôm Pênh (Cam-pu-chia), ASEAN và Trung Quốc
đã ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông.
75
Những nội dung cơ bản của Tuyên
bố về cách ứng xử của các bên trên
Biển Đông (DOC)?
Ngày 4/11/2002, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 8 tại
Phnôm Pênh (Cam-pu-chia), ASEAN và Trung Quốc đã ký kết
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông. Đây là văn kiện
chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan
đến vấn đề Biển Đông và được coi là bước đột phá trong quan hệ
182
ASEAN - Trung Quốc về vấn đề này. Tuyên bố DOC bao gồm các
nội dung cơ bản sau:
- Các Bên khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước Luật Biển
1982, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên
tắc chung sống hòa bình và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi
khác của pháp luật quốc tế, coi đây là các quy phạm cơ bản điều
chỉnh quan hệ giữa các quốc gia.
- Các Bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ bằng
biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực, thông qua trao đổi ý kiến và thương lượng giữa các quốc gia có
chủ quyền liên quan phù hợp với các nguyên tắc được công nhận
rộng rãi của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển
1982.
- Các Bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do hàng
không ở Biển Đông phù hợp với các quy định của Công ước Luật
Biển 1982.
- Các Bên cam kết kiềm chế các hoạt động có thể làm phức
tạp thêm tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó,
kiềm chế không đưa người lên các đảo, bãi hiện nay không có
người ở.
- Trong khi tìm kiếm giải pháp lâu dài, các Bên cam kết tăng
cường nỗ lực để xây dựng lòng tin như:
+ Tiến hành đối thoại quốc phòng,
+ Đối xử nhân đạo với người bị nạn trên biển,
+ Thông báo, trên cơ sở tự nguyện, cho các bên liên quan về
các cuộc diễn tập quân sự,
183
+ Trao đổi thông tin liên quan trên cơ sở tự nguyện.
- Trong khi tìm kiếm giải pháp toàn diện và lâu dài cho vấn
đề tranh chấp ở Biển Đông, các Bên có thể tìm kiếm và tiến hành
các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như:
+ Bảo vệ môi trường biển,
+ Nghiên cứu khoa học biển,
+ An toàn và an ninh hàng hải,
+ Tìm kiếm, cứu nạn trên biển,
+ Đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia như buôn bán ma
túy, cướp biển, cướp có vũ trang trên biển và buôn lậu vũ khí.
Các Bên sẽ thỏa thuận phương thức, địa điểm và phạm vi của
các hoạt động hợp tác này.
Các Bên khẳng định việc thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở
Biển Đông sẽ thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định trong khu vực
và đồng ý sẽ cùng nhau làm việc để đạt mục tiêu này.
76
Có
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
trên Biển Đông 2002 (DOC) và Quy
tắc hướng dẫn triển khai DOC đã
được thông qua tại Cuộc họp SOM
ASEAN-Trung Quốc ngày 20/7/2011
tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a có vai trò, ý
nghĩa như thế nào?
thể thấy việc ký kết Tuyên bố DOC năm 2002 giữa
ASEAN và Trung Quốc là kết quả của nỗ lực chung của cả ASEAN
184
và Trung Quốc. Đây là văn kiện chung đầu tiên giữa ASEAN và
Trung Quốc trực tiếp liên quan vấn đề Biển Đông. Việc ký kết văn
kiện này là một bước tiến quan trọng trong việc đối thoại giữa
Trung Quốc và ASEAN về các vấn đề trên biển.
Lãnh đạo cao cấp của ASEAN và Trung Quốc luôn đánh giá
cao ý nghĩa của DOC và nhiều lần khẳng định quyết tâm thực hiện
đầy đủ DOC và hướng tới COC. Tuyên bố chung của các nguyên
thủ và Thủ tướng các nước ASEAN và Trung Quốc về đối tác chiến
lược ASEAN - Trung Quốc (Ba-li, In-đô-nê-xi-a ngày 08/10/2003)
đã coi việc thực hiện DOC là một biện pháp trong hợp tác an ninh
giữa ASEAN và Trung Quốc. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN Trung Quốc lần thứ 13 (tổ chức tại Hà Nội ngày 29/10/2010), các
nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN và Trung Quốc một lần nữa khẳng
định lại cam kết triển khai đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên ở Biển Đông và hướng tới thông qua Bộ Quy
tắc ứng xử ở Biển Đông trên cơ sở đồng thuận, qua đó góp phần
duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực.
Vai trò của DOC và sự cần thiết thực hiện đầy đủ các cam kết
theo DOC cũng được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Điểm 13 của
Tuyên bố của Chủ tịch ARF 17 tại Hà Nội nêu rõ “Các Bộ trưởng
khẳng định tầm quan trọng của DOC như là một văn kiện lịch sử
giữa ASEAN và Trung Quốc, thể hiện cam kết tập thể nhằm đảm
bảo các giải pháp hoà bình cho các tranh chấp trong khu vực. Các
Bộ trưởng nhấn mạnh hiệu quả của DOC trong việc xây dựng sự tin
cậy lẫn nhau và sẽ giúp cho việc duy trì hoà bình và ổn định ở khu
vực. Các Bộ trưởng khuyến khích các nỗ lực theo hướng thực hiện
đầy đủ DOC và cuối cùng tiến tới COC”.
185
Nhằm triển khai DOC đầy đủ và hiệu quả, Quy tắc hướng dẫn
triển khai DOC đã được thông qua tại Cuộc họp SOM ASEAN Trung Quốc ngày 20/7/2011 tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a.
Quy tắc hướng dẫn bao gồm 8 điểm với các nội dung chính
quy định việc triển khai DOC phải được tiến hành từng bước theo
trình tự của các điều khoản của DOC; triển khai các hoạt động của
các dự án của DOC cần được xác định rõ (về bảo vệ môi trường
biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn hàng hải và thông tin liên
lạc trên biển, hoạt động tìm kiếm cứu nạn, và chống tội phạm
xuyên quốc gia bao gồm buôn lậu ma túy, cướp biển và cướp có vũ
trang trên biển và vận chuyển vũ khí trái phép); và việc tham gia
các hoạt động hoặc các dự án trên tinh thần tự nguyện và các hoạt
động ban đầu theo tinh thần của DOC được coi là các biện pháp
xây dựng lòng tin…
Ý nghĩa của việc thông qua Quy tắc hướng dẫn triển khai
DOC là việc thực hiện DOC không chỉ là triển khai các dự án mà
phải thực hiện đầy đủ các quy định khác theo trình tự, đó là tôn
trọng quyền tự do hàng hải, bay qua Biển Đông theo các quy định
của luật pháp quốc tế trong đó có Công ước luật Biển năm 1982;
giải quyết tranh chấp chủ quyền và lãnh thổ bằng các biện pháp hòa
bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua đàm phán và
hiệp thương hữu nghị giữa các bên tranh chấp trực tiếp phù hợp với
luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước Luật Biển năm 1982; cam
kết tự kiềm chế, không làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp làm
ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định…
186
Phần ba
HáI - §¸P VÒ X¢Y DùNG
Vµ PH¸T TRIÓN C¸C LÜNH VùC
LI£N QUAN §ÕN BIÓN, §¶O VIÖT NAM
187
77
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta
trong Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020?
Để tiếp tục phát huy hơn nữa các tiềm năng của biển trong
thế kỷ XXI, Hội nghị lần thứ 4 ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007
“Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn mạnh
"Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”. Nghị
quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo của Đảng về định hướng
chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, cụ thể như sau:
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn
diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc
độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo
đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết
hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng
nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa,
phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ
hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
188
78
Mục tiêu cơ bản của Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2025 theo Nghị quyết
Trung ương 4 (Khóa X)?
Nhận thức được vai trò quan trọng của biển, đảo đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, cùng với việc phấn đấu thực
hiện mục tiêu chung là đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, Hội nghị Trung ương 4
khóa X đã xác định mục tiêu của Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 với nội dung cơ bản như sau:
Mục tiêu tổng quát: đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc
chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho
đất nước giàu mạnh.
Mục tiêu cụ thể: xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực
cho phát triển kinh tế biển; phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên
biển và ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP và 55 - 60%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven
biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu
nhập bình quân chung của cả nước. Cùng với xây dựng một số
thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn
kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây
dựng cơ quan quản lý tổng hợp và thống nhất về biển có hiệu lực,
hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
189
79
Những nhiệm vụ và giải pháp mà
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác
định nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế biển?
Xuất phát từ việc phân tích tiềm năng, lợi thế, các bài học
thành công và những thách thức đối với phát triển kinh tế biển
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trong bối cảnh tranh
chấp phức tạp trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các
quan điểm cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế biển nhằm phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển. Đó là: (1) Phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát
triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện
đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm
nhìn dài hạn; (2) Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi
trường, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải
đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; (3) Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội,
bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa;
phát huy nội lực, thu hút mạnh ngoại lực theo nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, Đảng và Nhà nước ta đã
định hướng triển khai các nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và xuyên suốt là
hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các
190
trung tâm kinh tế hướng biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển
của đất nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao
đời sống dân cư vùng ven biển, trên các đảo và những người hoạt
động trên biển; phát triển kinh tế biển gắn với quản lý và bảo vệ
biển, đảo. Nhiệm vụ trước mắt đến năm 2020, tiếp tục phát triển
thành công, có bước đột phá đối với các ngành kinh tế biển, ven
biển, như: Khai thác và chế biến dầu khí, kinh tế hàng hải, khai
thác và chế biến hải sản, du lịch biển và kinh tế hải đảo, xây dựng
các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven
biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển; tạo các điều kiện
cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho những người dân sinh sống
ở những vùng thường bị thiên tai; xây dựng các cơ sở bảo vệ môi
trường biển.
Các giải pháp chung cần phải thực hiện, trước tiên là đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, thường xuyên và có
hệ thống trong nhân dân nhằm nâng cao và tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân
dân về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và
bảo vệ Tổ quốc. Ý thức và nhận thức về biển phải được thể hiện rõ
và đầy đủ trong chính sách phát triển của các ngành có liên quan và
các địa phương có biển.
Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực kinh tế biển hợp lý gắn với xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân. Tăng cường hiện diện dân sự trên các vùng biển, đảo của tổ
quốc gắn với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển
cùng với ban hành các chính sách đặc biệt để khuyến khích nhân
dân định cư ổn định trên đảo và làm ăn dài ngày trên biển.
191
Đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học - công nghệ
biển mạnh và hiện đại gắn với việc xây dựng và quản lý tốt cơ sở
dữ liệu biển quốc gia phục vụ việc hoạch định chính sách, quy
hoạch khai thác, sử dụng biển, đảo; tăng cường năng lực giám sát,
quan trắc, giảm thiểu và xử lý các thảm họa thiên tai, sự cố môi
trường biển, ven biển và hải đảo.
Triển khai quy hoạch khai thác, sử dụng biển và hải đảo ở các
cấp độ khác nhau đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trên cơ
sở đó phân bổ nguồn lực và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của các ngành, địa phương nhằm tiến tới chấm dứt việc
khai thác biển, đảo và vùng ven biển một cách tự phát, thiếu quy
hoạch, góp phần giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng.
Quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả về biển và hải đảo.
Trước hết cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển
một cách đầy đủ, làm cơ sở cho việc xác lập chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia, quản lý khai thác sử dụng các
vùng biển, ven biển và hải đảo. Ban hành cơ chế, chính sách đảm
bảo cho phát triển kinh tế biển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc
biệt, sớm thể chế hóa phương thức quản lý nhà nước tổng hợp về
biển và hải đảo, làm cơ sở cho việc thống nhất quản lý nhà nước đối
với biển và hải đảo, gắn với tăng cường năng lực cho hệ thống các
cơ quan quản lý nhà nước về biển và hải đảo từ Trung ương xuống
địa phương cả về số lượng và chất lượng.
Tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về biển để tranh thủ
công nghệ tiên tiến, thu hút thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế,
khoa học - công nghệ biển, cho khai thác, sử dụng có hiệu quả các
192
nguồn tài nguyên biển, quản lý và bảo vệ môi trường biển. Nâng
cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế biển và sản
phẩm biển của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bảo đảm chất lượng môi trường biển cho phát triển bền vững
kinh tế - xã hội biển thông qua tăng cường kiểm soát môi trường
biển; quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm
trước khi đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt
động kinh tế biển. Phòng ngừa và sẵn sàng ứng cứu các sự cố môi
trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc; ngăn ngừa suy
thoái và phục hồi các Hệ sinh thái đã bị mất, đã bị suy thoái; triển
khai Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020 được Thủ
tướng phê duyệt năm 2010.
Chủ động phòng ngừa và thực thi các biện pháp thích ứng,
giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến
vùng ven biển, biển và hải đảo. Khuyến khích sự chủ động tham
gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình nói trên và cải thiện
sức chống chịu của vùng ven biển, hải đảo trước các tác động của
biến đổi khí hậu.
80
Một số thành tựu của các lĩnh vực
kinh tế biển chủ yếu của Việt Nam?
Trong thời
gian qua, dựa trên lợi thế về tài nguyên biển,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp quan
trọng để thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu
193
của Việt Nam và đã đạt được những thành tựu cơ bản, tạo đà cho
các giai đoạn phát triển tiếp sau. Quy mô kinh tế biển và vùng ven
biển tăng lên rõ rệt, có bước phát triển mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng
trên 10%. Ngoài các ngành kinh tế biển truyền thống như thủy sản,
hàng hải, du lịch, điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học - công
nghệ biển, diêm nghiệp,... vừa qua cơ cấu ngành, nghề cũng thay
đổi cùng với sự xuất hiện ngành/lĩnh vực kinh tế mới. Đáng kể là
các lĩnh vực, như: khai thác dầu khí, kinh tế đảo, kinh tế ven biển,
kinh tế bảo tồn, tìm kiếm cứu hộ và cứu nạn, quản lý nhà nước về
biển, lĩnh vực đối ngoại và biên giới lãnh thổ trên biển; chế biến
dầu khí, chế biến thủy sản,...
Ngoài đội tàu, ngành hàng hải đã có hệ thống khoảng 90
cảng biển lớn nhỏ với tổng năng lực hàng hóa thông qua gần 100
triệu tấn/năm. Các ngành vận tải biển, đóng và sửa chữa tàu biển,
xuất khẩu thuyền viên,... bước đầu cũng đã đóng góp cho sự phát
triển chung của đất nước. Ngành du lịch biển cũng phát triển khá
mạnh, hàng năm thu hút khoảng gần 15 triệu lượt khách, trong đó
có hơn 3 triệu khách nước ngoài, bằng 73% số khách du lịch nước
ngoài của cả nước, đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm; giải quyết
việc làm cho hơn 15 vạn lao động. Hoạt động khai thác dầu khí
được duy trì tại các mỏ ở thềm lục địa phía nam. Sản lượng dầu thô
khai thác ở nước ta tăng hàng năm 30%. Tuy nhiên, sản lượng khai
thác dầu khí trong nước thời gian tới sẽ chững lại và sẽ giảm đến mức
13 triệu tấn (năm 2025).
Vùng biển và ven biển có đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu
ngoại tệ, chủ yếu từ lĩnh vực dầu khí và thủy sản. Các ngành kinh tế
có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu
biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy, hải sản, thông tin liên lạc,...
194
bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ
chiếm khoảng 2% của kinh tế biển), dự kiến tăng trong tương lai.
Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng mở, bước
đầu đã hình thành 15 khu kinh tế (KKT) ven biển - là các trung tâm
phát triển kinh tế hướng biển (Bảng 1). Đây là những khu vực phát
triển tổng hợp các ngành, nghề biển như hậu cần nghề cá, công
nghiệp gắn với cảng biển và vận tải biển, du lịch biển, đô thị hóa và
nghiên cứu khoa học về biển,... Để tăng cường và tập trung đầu xây
dựng các KKT ven biển trọng điểm, tháng 8/2012 Chính phủ đã ra
quyết định chọn 5 nhóm KKT ven biển để ưu tiên đầu tư: Nhóm
Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng
(Hà Tĩnh), Chu Lai - Dung Quất (Quảng Nam - Quảng Ngãi) và
Phú Quốc (Kiên Giang).
Bảng 1: Các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020
1. Khu kinh tế Vân Đồn
(Quảng Ninh)
9. Khu kinh tế Dung Quất
(Quảng Ngãi)
3. Khu kinh tế Nghi Sơn
(Thanh Hóa)
11. Khu kinh tế Nam Phú Yên
(Phú Yên)
2. Khu kinh tế Đình Vũ - Cát
Hải (Hải Phòng)
10. Khu kinh tế Nhơn Hội
(Bình Định)
4. Khu kinh tế Đông Nam Nghệ 12. Khu kinh tế Vân Phong
An (Nghệ An)
(Khánh Hòa)
5. Khu kinh tế Vũng Áng
(Hà Tĩnh)
13. Khu kinh tế Phú Quốc
(Kiên Giang)
195
6. Khu kinh tế Hòn La
(Quảng Bình)
7. Khu kinh tế Chân Mây Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế)
8. Khu kinh tế mở Chu Lai
(Quảng Nam)
14. Khu kinh tế Định An
(Trà Vinh)
15. Khu kinh tế Năm Căn
(Cà Mau)
Nguồn: Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2010 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát
triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020”.
Ở một số hải đảo, đã có bước phát triển mới, vai trò kinh tế
của các đảo tăng lên rõ rệt và tạo ra một lĩnh vực kinh tế đảo đầy
triển vọng. Hiện nay, trong 12 huyện đảo thì 66 đảo có dân sinh
sống với tổng số trên 240.000 người, mật độ dân số trung bình trên
các đảo là 95 người/km2, kết cấu hạ tầng được tăng lên rõ rệt, hình
thành hệ thống giao thông trên đảo, nhiều đảo gần bờ có điện lưới,
đảo xa bờ có máy phát điện, điện mặt trời và cơ sở cung cấp nước
ngọt. Có nhiều đảo sẽ phát triển thành những trung tâm kinh tế
hướng biển như Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc,...
Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường
biển được triển khai định kỳ 5 năm đã cung cấp những hiểu biết
khái quát các đặc trưng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên biển.
Đặc biệt, Việt Nam đã chú ý thực hiện các cam kết quốc tế, đẩy
mạnh công tác bảo tồn biển, hướng tới phát triển kinh tế sinh thái
biển. Đến nay, khoảng 13/28 vườn quốc gia, 22/55 khu bảo tồn
thiên nhiên, 17/34 khu rừng văn hóa lịch sử và môi trường nằm ở
vùng ven biển và trên các hải đảo ven bờ. Các khu dự trữ sinh
196
quyển thế giới được công nhận đến nay đại đa số nằm ở vùng bờ
biển, như: rừng ngập mặn Cần Giờ, vùng quần đảo Cát Bà, vùng
cửa sông Hồng và sông Cửu Long,… Quy hoạch hệ thống 16 khu
bảo tồn biển (KBTB) được Chính phủ phê duyệt năm 2010. Năm
1994 vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới,
năm 2003 vịnh Nha Trang và năm 2009 vịnh Lăng Cô được công
nhận là một trong những vịnh đẹp của thế giới. Ngoài ra, các khu di
sản văn hóa và thiên nhiên thế giới như khu phố cổ Hội An, khu
thành cổ Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và động Phong Nha đều nằm ở vùng
ven biển. Du lịch lặn bắt đầu phát triển ở Nha Trang dựa trên cơ sở
khai thác các giá trị dịch vụ của HST biển.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về biển và hải đảo mới được thiết
lập từ năm 2008. Đây là lĩnh vực mới tập trung vào quản lý nhà nước
tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo. Kéo theo đó, hệ thống
quản lý nhà nước về biển và hải đảo ở nước ta đã được hình thành
từ Trung ương xuống địa phương. Nghị định số 25/2009/NĐ-CP
được Chính phủ ban hành ngày 06 tháng 3 năm 2009 về quản lý
tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo được xem
là văn bản chính sách đầu tiên đề cập (tuy chưa đầy đủ) đến cách
tiếp cận quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Ngày
02/7/2012, Chủ tịch nước đã ký lệnh Công bố Luật Biển Việt Nam.
Công tác đối ngoại và biên giới lãnh thổ liên quan đến biển
cũng có thể xem là một lĩnh vực quản lý nhà nước mang tính đặc
thù ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Thời
gian vừa qua chúng ta đã ký kết được một số thỏa thuận phân định
và hợp tác trên biển với các nước láng giềng nhằm duy trì hòa bình,
ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực Biển Đông. Ngoài ra,
Việt Nam cũng tham gia ký kết các văn kiện mang tính chất quốc tế
197
và khu vực về Biển Đông như Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển
Đông (DOC), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982;
Công ước về Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO, các công ước Nghề
cá, bảo tồn sinh vật biển; triển khai một số dự án hợp tác song
phương và đa phương về biển với các nước liên quan.
81
Ngành dầu khí có vai trò quan trọng
như thế nào đối với nền kinh tế nước
ta hiện nay?
Sau gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, ngành dầu khí
Việt Nam đã trải qua một chặng đường đầy khó khăn, nhưng đã đạt
được những thành tựu đáng kể, trở thành “đầu tàu kinh tế” quốc dân
và đi đầu trong kinh tế biển của đất nước. Đã phát hiện và đưa vào
khai thác nhiều mỏ dầu khí, đưa Việt Nam vào hàng ngũ các nước
xuất khẩu dầu thô, góp phần rất quan trọng cho sự ổn định và phát
triển nền kinh tế quốc dân thời gian qua.
Ngoài việc phát triển công nghiệp khai thác dầu khí, ngành
dầu khí đã phát triển nhiều lĩnh vực quan trọng khác như: chế biến
lọc hóa dầu, kinh doanh sản phẩm dầu khí, dịch vụ kỹ thuật dầu khí
và cung cấp vật tư thiết bị cho ngành dầu khí, xây dựng các nhà
máy điện với doanh thu hàng trăm ngàn tỷ đồng mỗi năm, góp phần
thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ khác của
đất nước, như ngành điện, phân bón,…
Ngày 03/9/1975, Tổng cục Dầu khí Việt Nam ra đời và thực
hiện sứ mạng xây dựng ngành dầu khí thành ngành kinh tế mũi
198
nhọn của đất nước như tinh thần Nghị quyết số 244/NQTW ngày
09/8/1975 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ. Cùng với chính sách mở cửa,
đổi mới của Đảng, năm 1988 ngành đã phát hiện ra thân dầu đặc
biệt trong đá móng granitoit mỏ Bạch Hổ, nhờ đó đưa nước ta trở
thành nước xuất khẩu dầu đứng thứ 3 vùng Đông Nam Á và tạo đòn
bẩy thu hút các công ty dầu khí nước ngoài đầu tư hoặc đầu tư trở
lại để tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở Việt Nam. Từ năm 1987 đến nay
có 77 hợp đồng dầu khí đã được ký kết, trong đó 53 hợp đồng đang
còn hiệu lực. Tính đến đầu năm 2010 đã khoan trên 600 giếng
khoan tìm kiếm - thăm dò và khai thác dầu khí với khối lượng
khoan gần 1,9 triệu mét.
Riêng năm 2010, ngành dầu khí đạt kỷ lục mới về doanh thu
(478 nghìn tỷ đồng, tương đương 24% GDP), nộp ngân sách nhà
nước đạt 128,7 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 30% thu ngân sách
nhà nước), doanh thu dịch vụ đạt 152,5 nghìn tỷ đồng. Ngoài đóng
góp về kinh tế, ngành dầu khí cũng đi đầu trong hội nhập quốc tế,
đi đầu trong ứng dụng và chuyển giao các công nghệ hiện đại, tiên
tiến, góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển của đất nước.
82
Thực trạng ngành khai thác khoáng
sản trên thềm lục địa (ngoài dầu khí)
ở Việt Nam hiện nay?
Đến nay, ngoài dầu khí, khoảng 35 loại hình khoáng sản có
quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn đã được phát
hiện. Chúng thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng,
đá quý và bán quý phân bố dọc ven biển, sườn bờ và dưới đáy biển.
199
Những phát hiện sa khoáng nguyên tố hiếm gần đây ở vùng
cát ven biển và biển ven bờ nam Trung Bộ cho thấy trữ lượng các
sa khoáng nói trên khá lớn. Từ đây sẽ khai thác các nguyên tố hiếm
- nguyên liệu rất quan trọng cho ngành công nghiệp quốc phòng và
vũ trụ - với tổng giá trị dự tính không thua kém giá trị của dầu khí
đã biết đến nay ở nước ta. Các mỏ sa khoáng ven biển được khai
thác từ thời Pháp thuộc như ở mỏ Bình Ngọc (Trà Cổ, tỉnh Quảng
Ninh), Vĩnh Mỹ (Huế), gần đây liên doanh với nước ngoài khai
thác sa khoáng Kỳ Anh,... Sa khoáng Nam Trung bộ đang chứng
kiến hiện tượng khai thác nhỏ, lẻ vô tổ chức, khiến cho suy giảm tài
nguyên và sẽ tác động lâu dài đến môi trường khu vực.
Khai thác cát ven biển làm vật liệu xây dựng cũng được tiến
hành ở nhiều nơi do loại cát này giàu thạch anh, ít tạp chất, nhưng
thuộc loại cát mặn, nên việc sử dụng chúng vẫn có nhiều hạn chế
và mang tính địa phương. Các mỏ vật liệu xây dựng khác tìm thấy ở
đáy biển với trữ lượng lớn nhưng việc khai thác chúng đòi hỏi công
nghệ cao và bảo vệ vùng biển, nên chưa được tiến hành.
Khai thác cát thủy tinh nổi tiếng là ở mỏ Vân Hải từ thời
Pháp thuộc, sau này chỉ khai thác ở quy mô địa phương. Khai thác
cát thủy tinh được tiến hành hiện nay ở Cam Ranh liên doanh với
Nhật Bản.
Nghề làm muối ở nước ta đã có từ lâu đời và là nghề còn thủ
công. Hiện nay hoạt động làm muối từ nước biển được tiến hành
trên khoảng 60.000 ha ruộng muối biển. Muối biển không chỉ rất
cần cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, mà còn cho các ngành công
nghiệp và y học. Ngoài ra, nước biển để nuôi trồng thủy sản, để
phát triển du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh,…
200
83
Tiềm năng và vai trò của ngành du
lịch biển đối với kinh tế Việt Nam
hiện nay?
Vùng biển Việt Nam có điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên thuận lợi cho phát triển du lịch biển, ven biển và đảo
với nhiều loại hình du lịch khác nhau. Du lịch đóng góp một phần
quan trọng vào phát triển kinh tế biển ở nước ta, đang là hướng ưu
tiên phát triển và có mức tăng trưởng khá rõ rệt trong những năm
gần đây. Đặc điểm địa hình ven biển tạo nên nhiều cảnh quan đẹp,
hấp dẫn khách du lịch trên suốt chiều dài đất nước như đèo Ngang,
đèo Hải Vân, đèo Cả,… xen kẽ với các mũi nhô và vũng, vụng ven
bờ với khoảng 126 bãi cát biển đẹp, trong đó khoảng 20 bãi cát
biển đạt tiêu chuẩn quốc tế, dài 16 km, chưa kể đến hàng trăm bãi
biển nhỏ, đẹp, nằm ven các vụng tĩnh lặng ven các đảo hoang sơ có
thể phát triển loại hình du ngoạn, picnic,... Vùng biển ven bờ tập
trung tới trên 2.500 đảo lớn nhỏ, nhiều đảo/cụm đảo có giá trị du
lịch như Quan Lạn, Cát Bà, Bạch Long Vỹ, vịnh Nha Trang, Cù
Lao Chàm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc,…
Vùng biển nước ta giàu tiềm năng bảo tồn với những giá trị
sinh thái tập trung chủ yếu ở hệ thống 13/28 vườn quốc gia; 22/55
khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 2 khu bảo tồn biển là Hòn Mun
(Khánh Hoà) và Cù Lao Chàm (Quảng Nam); 17/34 khu rừng văn
hóa lịch sử và môi trường ở vùng ven biển và hải đảo ven bờ, trong
đó tiêu biểu là di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long; rừng ngập
mặn Cần Giờ và vùng quần đảo Cát Bà là khu dự trữ sinh quyển thế
201
giới,… Danh mục 16 khu bảo tồn biển đã được quy hoạch và được
Chính phủ phê duyệt. Du lịch lặn đã bắt đầu phát triển ở Nha Trang
dựa trên cơ sở khai thác các giá trị dịch vụ của rạn san hô.
84
Các loại hình du lịch biển ở Việt Nam?
Với tư cách là một trong 5 lĩnh vực kinh tế biển quan trọng
được xác định tại Nghị quyết số 09-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020, du lịch và kinh tế đảo ngày càng khẳng định vị
trí của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung và đối với bản thân sự phát triển ngành du lịch nói riêng.
Du lịch biển phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển của
nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội dải
ven biển, nơi hiện có khoảng 21,2 triệu người trong độ tuổi lao động
và góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường biển.
Ở Việt Nam du lịch biển có vị trí đặc biệt quan trọng trong
chiến lược phát triển du lịch của cả nước. Chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam đến năm 2010 và Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
đã xác định 7 khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch, trong số
đó đã có tới 5 khu vực thuộc vùng ven biển. Mặc dù cho đến nay,
nhiều tiềm năng du lịch biển đặc sắc, đặc biệt là hệ thống đảo ven
bờ, chưa được đầu tư khai thác tương xứng, nhưng ở khu vực ven
biển đã phát triển khoảng 70% các khu điểm du lịch trong cả nước,
202
hàng năm thu hút từ 70 - 80% lượng khách du lịch. Thu nhập từ hoạt
động du lịch biển chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập du lịch cả nước.
Điều này đã khẳng định vai trò của du lịch biển đối với sự phát triển
chung của du lịch Việt Nam.
Căn cứ vào đặc điểm địa lý lãnh thổ nơi diễn ra hoạt động du
lịch, có thể được chia thành du lịch biển, du lịch núi, du lịch cao
nguyên,... Du lịch biển là hoạt động du lịch được tổ chức phát triển
trên lãnh thổ vùng ven biển và vùng biển ven bờ (bao gồm cả các
đảo ven bờ) và vì vậy hoạt động phát triển du lịch biển chủ yếu dựa
vào đặc điểm tự nhiên và tiềm năng du lịch của lãnh thổ địa lý này.
Biển, vùng ven biển và hải đảo nước ta đa dạng về cảnh quan thiên
nhiên, giàu có về đa dạng sinh học và các hệ sinh thái cho nên các
loại hình du lịch cũng khá phong phú và đa dạng. Bao gồm du lịch
ngắm xem (bằng du thuyền và lặn), du ngoạn, nghỉ dưỡng, tắm
biển, văn hóa biển, khoa học biển, du lịch hang động, du lịch sinh
thái gắn với các khu bảo tồn biển, đảo; du lịch thể thao biển (còn
chưa phát triển nhiều) và các loại hình du lịch picnic,...
85
Năng lực và những khó khăn trong
công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ
trên biển ở Việt Nam hiện nay như
thế nào?
Hiện cả nước có khoảng 7 lực lượng tham gia hoạt động tìm
kiếm, cứu nạn (TKCN) trên biển, trong đó có các tàu kiểm ngư, tàu
cá thuộc ngành thủy sản. Lực lượng Bộ đội biên phòng địa phương
và lực lượng biên phòng cơ động có tàu và ca-nô, nhưng công suất
máy của các phương tiện này nhỏ, chỉ 3.000 CV trở lại. Phương tiện
203
chuyên dùng cho hoạt động tuần tra, kiểm soát, bảo vệ an ninh, trật
tự an toàn trên biển, thềm lục địa và tham gia phối hợp TKCN trên
biển khi cần thiết của Cảnh sát biển hiện có gần 20 tàu. Các phương
tiện của lực lượng Hải quân đóng vai trò chính trong hoạt động
TKCN trên biển thời gian qua là các tàu vận tải Hải quân 1.000 tấn
trở xuống. Do có nhiều tính năng không phù hợp với hoạt động
TKCN nên hiệu quả sử dụng của các tàu này thường rất thấp. Ngoài
ra, còn có Đội bay của Lực lượng Không quân, các phương tiện
hoạt động trên biển và phương tiện chuyên dụng của ngành hàng
hải cũng tham gia hoạt động TKCN .
Ở nước ta đã có Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm, Cứu hộ, Cứu nạn
và các Trung tâm vùng (ba vùng) ứng cứu sự cố tràn dầu. Tổng cục
Biển và Hải đảo Việt Nam có trách nhiệm phối hợp cùng với Cục
Hàng hải Việt Nam và các địa phương ven biển. Nhìn chung năng
lực trang thiết bị, cơ chế phối hợp còn yếu, nguồn nhân lực thiếu kỹ
năng chuyên nghiệp,... nên hiệu quả chung thấp, chưa tương xứng
yêu cầu nhiệm vụ. So với các nước tiên tiến trong khu vực như
Nhật Bản, Hàn Quốc,... thì công tác này ở nước ta còn ở mức rất
thấp, phân tán. Riêng nguồn lực tham gia hoạt động TKCN trên
biển của ngành hàng hải bao gồm:
1) Trung tâm phối hợp TKCN hàng hải Việt Nam;
2) Các Cảng vụ Hàng hải;
3) Phương tiện không chuyên dụng TKCN;
4) Hệ thống Đài thông tin Duyên hải Việt Nam thuộc Công ty
TNHH MTV Thông tin điện tử hàng hải Việt Nam;
5) Hệ thống giám sát thống nhất tàu thuyền và các hoạt động
kinh tế khác;
6) Vệ tinh, máy bay.
204
Những khó khăn bất cập trong hoạt động phối hợp phối hợp
TKCN trên biển Việt Nam hiện nay liên quan đến: nhận thức xã
hội, cơ quan đơn vị có phương tiện và người tham gia hoạt động
trên biển; văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động
TKCN trên biển còn thiếu, chưa rõ ràng; công tác vận động, giáo
dục, thuyết phục còn thiếu, yếu, chưa thường xuyên, sâu rộng và
hiệu quả; nhận thức của cộng đồng nói chung và của cơ quan, đơn
vị, người tham gia hoạt động trên biển nói riêng còn bất cập, thiếu
tính tự giác. Ngoài ra, còn tư tưởng chủ quan, ỷ lại sự hỗ trợ của
Nhà nước trong công tác cứu hộ, cứu nạn nên chưa chủ động, tự lực
trong hoạt động (nhất là đối với phương tiện tàu cá). Công tác
TKCN trên biển chưa thực sự được xã hội hóa nên chưa huy động
tối đa nguồn lực của xã hội phục vụ cho hoạt động TKCN trên biển.
Công tác quản lý nhà nước về an toàn hàng hải và TKCN
trên biển còn yếu, thể hiện ở một số mặt: Chưa có cơ quan quản lý
nhà nước về công tác TKCN (hiện nay phải do Chính phủ trực tiếp
quản lý).
Hệ thống tổ chức TKCN trên biển nước ta chưa thực sự
phù hợp.
Trang thiết bị chuyên dụng (thiết bị thông tin liên lạc,...) giữa
các lực lượng chưa đồng bộ.
Năng lực của đội ngũ nhân viên tổ chức, điều hành hoạt động
TKCN trên biển và các lực lượng phối hợp còn hạn chế, chưa được
huấn luyện chuyên sâu, bài bản.
Khả năng ngoại ngữ hạn chế nên hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực TKCN chưa đáp ứng nhu cầu đòi hỏi.
205
86
Năng lực và những khó khăn trong
công tác dự báo thời tiết trên biển ở
nước ta hiện nay?
Biển nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu nhiều
rủi ro thiên tai hàng năm, gây thiệt hại kinh tế và xã hội nghiêm
trọng và khó lường, nên việc dự báo chính xác thời tiết sẽ giúp khắc
phục các thảm họa trên. Để dự báo khí tượng - thủy văn (KTTV),
trong đó có KTTV biển, cần có 3 thành phần chính sau:
- Hệ thống quan trắc, gồm các trạm, các phương tiện, thiết bị
quan trắc, đo đạc các yếu tố khí tượng, thủy văn (các trạm KTTV,
Rađa thời tiết, các vệ tinh khí tượng và các thiết bị thu trên mặt
đất,...).
- Hệ thống thông tin liên lạc, gồm các mạng lưới viễn thông
thu thập số liệu từ các trạm quan trắc trong nước và trên thế giới về
các đơn vị dự báo, truyền phát các sản phẩm dự báo đến đối tượng
sử dụng.
- Hệ thống xử lý số liệu, tạo ra sản phẩm dự báo, gồm toàn bộ
phương tiện, công cụ xử lý, phân tích số liệu thu thập được và mô
hình dự báo số trị phân giải cao để đưa ra sản phẩm dự báo.
Riêng công tác quan trắc KTTV biển của Việt Nam còn rất
hạn chế, chỉ mới có 18 trạm hải văn dọc theo bờ biển, các trạm khí
tượng trên các đảo, một số ra-đa thời tiết ven biển. Để dự báo bão
hay áp thấp nhiệt đới khi còn cách xa bờ, chủ yếu vẫn dùng số liệu
từ vệ tinh khí tượng. So với các nước trong khu vực, chúng ta còn
206
thiếu hệ thống các trạm quan trắc gắn trên các phao cố định trên
biển, hệ thống thông tin thu thập số liệu khí tượng từ các tàu vận tải
đi qua vùng biển nước ta. Chúng ta mới có một tàu khảo sát biển
chuyên dụng đã cũ và lạc hậu và cũng chưa thể thực hiện được các
đợt khảo sát một cách có hệ thống. Trong khi các nước phát triển
còn sử dụng máy bay chuyên dụng để thám sát bão khi bão còn ở
trên biển để tăng thêm thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu
và dự báo bão. Có thể nói, số liệu quan trắc về KTTV biển ở nước
ta còn nghèo nàn, chưa đáp ứng nhu cầu dự báo KTTV biển, đặc
biệt các dự báo ngắn hạn.
Về hệ thống thông tin liên lạc: Hiện nay, hệ thống thông tin
liên lạc khí tượng - thủy văn của nước ta đang được sử dụng gồm
nhiều mạng thông tin như: Mạng viễn thông toàn cầu GTS, mạng
Internet, mạng thông tin nội địa,... Tuy nhiên, với hệ thống thông
tin khí tượng thủy văn trên biển thì chủ yếu phải sử dụng hệ thống
thông tin qua vệ tinh. Do giá thành thiết bị và đặc biệt là chi phí
vận hành còn cao nên thông tin khí tượng - thủy văn trên biển vẫn
còn là một khó khăn lớn. Vì thế, hệ thống thông tin chuyên ngành
khí tượng - thủy văn cần được trang bị và ứng dụng những công
nghệ mới để đảm bảo tốc độ truyền tin, tính ổn định cao và thông
suốt trong mọi tình huống.
Về công nghệ dự báo, hệ thống xử lý số liệu: Hiện tại, đối với
KTTV biển, ngoài các bản tin dự báo thời tiết thông thường có dự
báo bão, áp thấp nhiệt đới, sóng biển, nước dâng do bão. Các dự
báo biển cần thiết khác như dòng chảy biển, nhiệt độ, độ mặn nước
biển,… vẫn chưa được tiến hành. Về năng lực dự báo KTTV biển
hiện nay có thể tóm tắt như sau:
207
- Dự báo bão: Đã đạt được trình độ dự báo bão trung bình của
thế giới với độ chính xác: cơn bão mạnh từ cấp 12 trở lên thì việc
xác định tâm bão sai số là 10 - 20 km, đối với những cơn bão cường
độ trung bình và yếu thì sai số xác định tâm bão rất lớn, lên tới 100
km; đối với quỹ đạo bão, sai số trung bình dự báo trong 24 giờ là
150 km, trong 48 giờ là 250 km và trong 72 giờ là 350 km (chính vì
vậy, dự báo quỹ đạo bão trong 72 giờ chỉ mang tính tham khảo).
- Dự báo áp thấp nhiệt đới: sai số xác định tâm áp thấp nhiệt đới
luôn lớn hơn so với xác định tâm bão, lên tới 100 - 200 km.
- Dự báo sóng biển: bản tin dự báo sóng biển mới chỉ được thực
hiện 02 lần/ngày và cho 10 vùng dự báo với các thông tin về độ cao,
hướng truyền sóng và các thông tin cảnh báo. Tuy nhiên các thông
tin này vẫn còn có sai số lớn, đặc biệt là đối với khu vực ven bờ
trong điều kiện thời tiết nguy hiểm.
- Dự báo nước dâng do bão: bản tin dự báo, cảnh báo nước
dâng do bão còn chung chung, chưa cụ thể về độ cao nước dâng và
thời điểm xảy ra, chưa chi tiết hoá được đến từng vùng ven biển,
đến cấp tỉnh, cấp huyện theo yêu cầu của Quy chế báo áp thấp nhiệt
đới, bão, lũ.
Công tác dự báo KTTV biển ở nước ta cũng đang gặp phải
những khó khăn về nguồn nhân lực và điều kiện cơ sở vật chất như
thực trạng về hệ thống dự báo KTTV nói chung của nước ta hiện
nay đã nêu ở trên. Riêng đối với công tác dự báo KTTV biển đang
có những khó khăn, hạn chế là:
- Chưa có mô hình tính toán và dự báo nước dâng do bão có
độ tin cậy cao, do vậy chưa xây dựng được công nghệ dự báo nước
dâng do bão một cách đáng tin cậy, chi tiết đến từng tỉnh, huyện
ven bờ.
208
- Mô hình tính toán dự báo sóng chưa được kiểm nghiệm và
đánh giá nhiều, lưới tính sử dụng hiện tại có độ phân giải thô do
vậy các sai số gặp phải trong một số trường hợp còn cao, đặc biệt là
sai số lớn tại vùng ven bờ.
- Hệ thống quan trắc số liệu biển còn thiếu, thưa, công nghệ
truyền rất thô sơ và chậm, chưa đạt mức tức thời (thời gian thực).
- Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu và phần mềm hỗ trợ dự báo
viên làm nghiệp vụ nên đôi lúc chưa đáp ứng được thời gian phát
bản tin và đa dạng hóa các loại bản tin.
87
Thế nào là vi phạm về an ninh, trật
tự, an toàn trên biển?
Theo Bộ Luật Hàng hải ngày 14/6/2005 của nước ta, những
hành vi sau được coi là hành vi vi phạm an toàn, an ninh, trật tự
trên biển (điều 10):
1. Hành vi gây phương hại hoặc đe dọa phương hại đến chủ
quyền và an ninh quốc gia;
2. Hành vi vận chuyển người, hàng hóa, hành lý, vũ khí, chất
phóng xạ, chất phế thải độc hại, chất ma túy trái với quy định của
pháp luật;
3. Hành vi cố ý tạo chướng ngại vật gây nguy hiểm hoặc làm
cản trở giao thông hàng hải;
4. Sử dụng, khai thác tàu biển không đăng ký, đăng kiểm
hoặc quá hạn đăng ký, đăng kiểm; giả mạo đăng ký, đăng kiểm;
209
5. Từ chối tham gia tìm kiếm, cứu nạn trên biển trong trường
hợp điều kiện thực tế cho phép;
6. Gây ô nhiễm môi trường;
7. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
người trên tàu biển; chiếm đoạt, cố ý làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài
sản trên tàu biển; bỏ trốn sau khi gây tai nạn hàng hải;
8. Gây mất trật tự công cộng, cản trở hoặc chống lại việc
thực hiện nhiệm vụ của người thi hành công vụ trên tàu biển và tại
cảng biển.
88
Những quy định ngư dân phải tuân
thủ khi tham gia đánh bắt thủy sản
ở những vùng biển chồng lấn?
Hiện nay vẫn còn đang tồn tại một số vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của Việt Nam chồng lấn với vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của một số nước trong khu vực như: Campuchia,
Thái Lan, Ma-lai-xia, In-đô-nê-xia. Đến nay, Việt Nam đã ký kết
được với một số nước trong khu vực các thỏa thuận phân định ranh
giới và hợp tác trên biển sau: (1) ký Hiệp định về vùng nước lịch sử
giữa Việt Nam và Camphuchia năm 1982; (2) ký thỏa thuận hợp tác
khai thác chung thềm lục địa chồng lấn với Ma-lai-xia năm 1992;
(3) ký hiệp định phân định ranh giới trên biển với Thái Lan năm
1997; (4) ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa và Hiệp định về hợp tác nghề cá với Trung Quốc
trong vịnh Bắc Bộ năm 2000; (5) ký hiệp định phân định thềm lục
địa với In-đô-nê-xia năm 2003.
210
Cho đến nay Việt Nam chưa có thỏa thuận nào về việc khai
thác thủy sản chung trên các vùng biển chồng lấn với các nước láng
giềng. Tuy nhiên, khi được phép khai thác thủy sản trên các vùng
biển chồng lấn, ngư dân phải tuân thủ những quy định chung về bảo
vệ nguồn lợi thủy sản trên nguyên tắc phát triển bền vững (không
sử dụng phương pháp, công cụ, ngư cụ khai thác thủy sản mang
tính tận thu, hủy diệt; không gây tác động xấu đến môi trường sống
của các loài thủy sinh; tuân thủ luật pháp của Việt Nam và nước có
vùng biển chồng lấn,...). Ngoài ra, tùy thuộc thỏa thuận giữa Việt
Nam và nước láng giềng có vùng biển chồng lấn mà có những quy
định cụ thể khác, như:
Với Campuchia, đây là vùng nước lịch sử, việc khai thác thủy
sản của nhân dân địa phương hai nước trong vùng biển này vẫn
theo tập quán làm ăn từ trước tới nay.
Với Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ phải theo Hiệp định hợp
tác nghề cá giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa, trong
đó quy định cụ thể khai thác thủy sản ở vùng đánh cá chung, vùng
dàn xếp quá độ; thủ tục xin cấp Giấy phép, nộp lệ phí; bảo vệ nguồn
lợi thủy sản, tránh trú bão,…
89
Những thách thức và hạn chế trong
phát triển kinh tế biển của Việt Nam?
Bên cạnh những thành tựu, thời gian qua phát triển kinh tế
biển và bảo tồn tính bền vững của biển ở nước ta còn gặp không ít
thách thức, hạn chế:
211
Một là, nhận thức về vai trò, vị trí của biển và kinh tế biển
của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn
chưa đầy đủ; quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với
tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; chưa chuẩn bị điều kiện
để vươn ra vùng biển quốc tế. Đầu tư xây dựng các khu kinh tế ven
biển còn tràn lan, thiếu trọng tâm trọng điểm.
Hai là, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn
yếu kém, lạc hậu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ nên hiệu quả sử
dụng thấp như các cảng biển,...; thiếu hệ thống đường bộ cao tốc
chạy dọc ven biển để nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công
nghiệp, sân bay ven biển nhỏ bé thành một hệ thống kinh tế biển
liên hoàn.
Ba là, hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ
biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc,
dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu
hộ, cứu nạn,... ở ven biển còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. Các phương
thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu áp dụng
như: quản lý không gian biển (marine spatial management), quy
hoạch sử dụng biển (sea-use planning) bao gồm hải đảo và vùng
ven biển, giống như quy hoạch sử dụng đất (land-use planning) áp
dụng trên đất liền. Đặc biệt còn ít chú ý nghiên cứu công nghệ biển
tiên tiến.
Bốn là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu
quả, thiếu bền vững do khai thác tự phát, thiếu/không tuân thủ quy
hoạch biển, đảo, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích (benefit
conflict) trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải đảo.
212
Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và
đầu tư nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu. Còn nghiêng về ưu tiên khai
thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức
năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài
nguyên biển còn ít được chú trọng, như: giá trị vị thế của các mảng
không gian biển, ven biển và hải đảo; giá trị dịch vụ của các hệ sinh
thái; thậm chí các giá trị văn hóa biển. Cách tiếp cận “nóng” trong
khai thác tài nguyên biển đang là hiện tượng phổ biến ở các lĩnh
vực kinh tế biển: chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý
đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên.
Năm là, môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Ngày
càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven
biển đổ ra biển, một số khu biển ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thủy
triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng,…
Sáu là, đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy hải sản giảm
sút. Các hệ sinh thái biển quan trọng (RSH, RNM, TCB) bị suy
thoái, bị mất habitat và bị thu hẹp diện tích. Các quần đảo có xu
hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven
biển, thay đổi tương tác sông-biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất
đến 60% các nơi cư trú tự nhiên quan trọng. RNM mất khoảng
15.000 ha/năm, khoảng 80% RSH trong vùng biển Việt Nam nằm
trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao, tình trạng trên cũng
diễn ra tương tự với TCB. Đã có khoảng 100 loài hải sản có mức độ
nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt
Nam. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản
lượng và kích thước cá đánh bắt. Năng suất tôm nuôi quảng canh
trong RNM bị giảm sút từ khoảng 200 kg/ha/vụ (năm 1980) đến
213
nay chỉ còn 80 kg/ha/vụ, và 01 ha RNM trước đây có thể khai thác
được khoảng 800 kg thủy sản, nhưng hiện nay chỉ thu được 1/20 so
với trước. Nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ có dấu hiệu bị khai
thác quá mức do tăng nhanh số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ, hiệu
suất khai thác hải sản giảm từ 0,92 (1990) xuống 0,34 tấn/CV/năm
(2005). Trong khi trữ lượng hải sản ở vùng biển xa bờ chưa được đánh
giá đầy đủ.
Bảy là, đến nay biển, đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ
yếu được quản lý theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung”
và chủ yếu quản lý theo ngành (sectoral management) thông qua
các luật pháp, chính sách ngành như nói trên. Điều này dẫn đến sự
chồng chéo về quản lý giữa khoảng 15 bộ ngành về biển, chính
sách quản lý thiếu đồng bộ, trong các luật hiện có không ít điểm
chồng chéo, hiệu lực thi hành thấp. Sự tham gia của cộng đồng địa
phương vào tiến trình quản lý còn rất thụ động, chưa làm rõ vấn đề
sở hữu/sử dụng đất ven biển và mặt nước biển cho người dân địa
phương ven biển. Công tác kiểm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy
phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển,… chậm được triển khai để
quản lý hiệu quả hoạt động khai thác, sử dụng biển, hải đảo.
Tám là, ngoài thiên tai biển xảy ra thường xuyên, Việt Nam
còn là một trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi
khí hậu và nước biển dâng, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Những thách thức nói trên đã, đang và nếu không sớm khắc
phục sẽ ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền
vững, và khả năng công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế
biển ở Việt Nam trong thời gian tới.
214
90
Hoạt
Hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa
học biển ở Việt Nam hiện nay?
động điều tra, nghiên cứu khoa học biển thường đi
trước một bước nhằm cung cấp các luận cứ khoa học về các điều
kiện tự nhiên, tài nguyên biển, điều kiện môi trường, các qui luật,
các quá trình biển và mức độ biến đổi của các yếu tố nói trên,... cho
việc hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch khai thác, sử
dụng biển, đảo.
Hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học biển ở nước ta được
bắt đầu từ những năm 22 của thế kỷ XX trong khuôn khổ các
chương trình/dự án hợp tác quốc tế về biển. Trong các năm 1922 1945 tàu De Lanessen (Pháp) đã có nhiều cuộc khảo cứu vùng Biển
Đông, chủ yếu phục vụ nghề cá. Sau đó chững lại, đến năm 1959
lại bắt đầu thực hiện Chương trình hợp tác Việt Nam - Trung Quốc
điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ, kết thúc 1965. Cùng thời gian này
(1959 - 1962) hợp tác với Trung Quốc đánh giá về nguồn lợi cá nổi
vịnh Bắc Bộ, và các năm 1960 - 1961 hợp tác với Viện Hải dương
học và Nghề cá Thái Bình Dương thuộc Liên Xô (trước đây) điều
tra, đánh giá trữ lượng cá đáy vịnh Bắc Bộ. Trong khi đó, ở vùng
biển phía Nam và vịnh Thái Lan (1959 - 1961) đã triển khai dự án
khảo cứu biển NAGA hợp tác với Viện Hải dương học Scrip ở
California, Hoa Kỳ. Trong các năm 1968 - 1974, Tổ chức Nông
215
lương Quốc tế (FAO), các tổ chức và các công ty quốc tế đã tiến
hành nhiều dự án khác nhau về khảo cứu nguồn lợi cá biển khơi và
địa chất-địa vật lý thềm lục địa phần nam Biển Đông.
Từ năm 1976 đến nay, hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học
biển tiếp tục được thực hiện giữa các Viện ở Viễn Đông của Liên Xô
(trước đây) với Viện Khoa học Việt Nam (trước đây) về đánh giá trữ
lượng hải sản, sinh vật biển và nghiên cứu rạn san hô ven bờ; giữa
Tổng cục Khí tượng thủy văn Việt Nam với Ủy ban Khí tượng Thủy
văn Liên Xô (trước đây) về thám sát khí tượng thủy văn Biển Đông.
Ngoài ra, có nhiều dự án hợp tác ngắn hạn, quy mô nhỏ hơn giữa các
cơ quan khoa học - công nghệ liên quan tới biển của Việt Nam với các
cơ quan khoa học biển thuộc các nước Nhật Bản, Pháp, Thái Lan,
Canada, Philipin, Nauy, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan, Hoa Kỳ,
Đức, Bỉ,… cũng như các tổ chức/chương trình quốc tế và khu vực,
như: IUCN, WWF, UNDP, GEF, UNEP, CCOP, IOC/UNESCO,
ASEAN, WB, ADB, SEAFDEC, IMO,… Các hợp tác này tập trung
điều tra, khảo sát theo mặt cắt ngang biển Đông, các vùng nước trồi,
các hệ sinh thái biển, quản lý tổng hợp vùng bờ, bảo tồn biển và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản, nghề cá, bảo vệ môi trường biển, khu vực tiền
châu thổ (avan-delta), chính sách biển và xóa đói giảm nghèo,…
Từ sau năm 1975, cứ 05 năm Chính phủ lại cho phép triển
khai các Chương trình điều tra, nghiên cứu biển và hiện nay đang
triển khai Chương trình KHCN biển cấp nhà nước giai đoạn 2011 2015. Từ năm 2007, Chính phủ đầu tư triển khai Đề án tổng thể
điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường biển đến năm
2010, tầm nhìn 2020 với sự tham gia của nhiều bộ, ngành và địa
phương. Về không gian, sau năm 2000, các hoạt động điều tra,
216
nghiên cứu khoa học biển chủ yếu tập trung vào các vấn đề nói trên
ở vùng biển ven bờ, các cửa sông, vũng vịnh và đầm phá.
Hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học biển vừa qua đã
cung cấp thông tin quan trọng cho phép hiểu được điều kiện tự
nhiên biển, tình hình nguồn lợi biển, các quá trình biển cơ bản,
thông lệ quốc tế về biển, tăng cường năng lực trong điều tra nghiên
cứu biển,… Tuy nhiên, điều tra kinh tế-xã hội, khảo cổ biển còn
chưa được quan tâm đúng mức, các đóng góp trực tiếp cho công tác
quản lý nhà nước về biển, đảo và phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ
quyền an ninh vùng biển, giải quyết các tranh chấp trên biển,… còn
hạn chế.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế như vậy, Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020 đã yêu cầu đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản
và nghiên cứu khoa học biển trên các vùng biển, đảo và thềm lục
địa của Việt Nam. Yêu cầu đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ
khoa học để nâng cao chất lượng điều tra, quan trắc, dự báo về tài
nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và bảo
đảm an ninh quốc phòng. Đặc biệt ưu tiên cho các hoạt động điều
tra, nghiên cứu phục vụ việc xác lập căn cứ khoa học cho việc xây
dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính
sách quản lý tài nguyên và môi trường biển theo hướng bền vững.
Ngoài ra, Việt Nam tham gia với tư cách làm Thành viên của
Ban chỉ đạo Diễn đàn toàn cầu về Đại dương (GOF), Nhóm công
tác ASEAN về Môi trường biển và ven biển (AWGCME), Tiểu ban
KHCN biển ASEAN (SCMSAT), Ủy Ban liên Chính phủ về Hải
dương học (IOC và IOC WESPAC), Mạng lưới Đại dương Thế giới
(WON), Ủy ban quyền lực đáy Đại dương,...
217
Các hướng và chính sách ưu tiên về điều tra, nghiên cứu biển
đến năm 2020 là: đẩy mạnh điều tra cơ bản và tổng hợp biển và hải
đảo; xây dựng cơ sở dữ liệu biển quốc gia; điều tra nghiên cứu,
đánh giá tiềm năng và triển vọng khoáng sản biển vùng thềm lục
địa Việt Nam; nghiên cứu xây dựng chính sách, luật pháp biển;
tăng cường năng lực KHCN biển và quản lý nhà nước về biển và
hải đảo cho cả cấp trung ương và địa phương; thực hiện chương
trình quản lý tổng hợp biển và vùng bờ; điều tra, nghiên cứu để
đánh giá và áp dụng các giải pháp thích ứng, giảm thiểu tác động
của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến môi trường và tài
nguyên biển; điều tra tương tác biển-lục địa và khí quyển ở các vùng
biển khác nhau.
91
Tiềm năng và thực trạng hệ thống
cảng biển của nước ta như thế nào?
Về tiềm năng cảng biển:
Việt Nam là quốc gia có vùng biển rộng, bờ biển dài và có
chỉ số hàng hải (maritime index) là 0,01 (trung bình 100km2 đất
liền có 01 km bờ biển), cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới. Dọc bờ
biển có nhiều eo vụng, vũng vịnh sâu, lại gần các trung tâm đô thị
lớn, các trung tâm du lịch biển, đảo, các khu vực sản xuất hàng hóa
có nhu cầu xuất nhập khẩu khẩu. Ngoài ra, có gần 3.000 đảo ven bờ
tạo thành hệ thống đảo “che chắn” hầu hết các vùng biển ven bờ và
vùng ven biển của Việt Nam ở mức độ khác nhau. Tuyến giao
thông quốc tế cắt qua khu vực Biển Đông được ví như con đường
giao thương nhộn nhịp nhất nhì trên thế giới.
218
Vì vậy, xây dựng và phát triển hệ thống cảng biển mang tính
sống còn đối với vận tải biển của nước ta và là kết cấu hạ tầng quan
trọng quyết định sự phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế biển
thời gian tới. Đến nay, nước ta có khoảng 90 cảng biển lớn nhỏ và
gần 100 địa điểm ven biển, ven đảo có thể xây dựng cảng, kể cả
cảng ở quy mô trung chuyển quốc tế.
Ngày 24/12/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 2190/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến 2030. Theo đó,
hệ thống cảng biển Việt Nam được phát triển theo vùng lãnh thổ,
gồm 6 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm cảng biển phía Bắc từ Quảng Ninh đến
Ninh Bình
Nhóm 2: Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa đến
Hà Tĩnh
Nhóm 3: Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ từ Quảng Bình
đến Quảng Ngãi
Nhóm 4: Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ từ Bình Định đến
Bình Thuận
Nhóm 5: Nhóm cảng biển Đông Nam Bộ (bao gồm cả Côn
Đảo và trên sông Soài Rạp thuộc Long An, Tiền Giang)
Nhóm 6: Nhóm cảng biển đồng bằng sông Cửu Long (bao
gồm cả Phú Quốc và các đảo Tây Nam).
Theo quy mô, chức năng và nhiệm vụ hệ thống cảng biển
Việt Nam có các loại cảng:
219
(1) Cảng tổng hợp quốc gia: là các cảng chính trong hệ thống
cảng biển Việt Nam bao gồm: Cảng trung chuyển quốc tế: Vân
Phong (Khánh Hòa); Cảng cửa ngõ quốc tế: Hải Phòng (Lạch
Huyện) và cảng Bà Rịa - Vũng Tàu (khu vực Thị Vải - Cái Mép);
Cảng đầu mối khu vực: Hòn Gai (Quảng Ninh), Nghi Sơn (Thanh
Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Dung Quất (Quảng
Ngãi), Quy Nhơn (Bình Định), Nha Trang, Ba Ngòi (Khánh Hòa),
Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh), Đồng Nai.
(2) Các cảng địa phương: có phạm vi hấp dẫn và chức năng
phục vụ chủ yếu trong phạm vi địa phương (tỉnh, thành phố).
(3) Cảng chuyên dụng: phục vụ trực tiếp cho các cơ sở công
nghiệp tập trung, hàng qua cảng có tính đặc thù chuyên biệt (dầu
thô, sản phẩm dầu, than, quặng, xi măng, clinke, hành khách,…) và
là một hạng mục trong tổng thể cơ sở công nghiệp mà nó phục vụ.
Trong mỗi cảng có thể có nhiều khu bến, mỗi khu bến có thể
có nhiều bến, mỗi bến có thể có nhiều cầu cảng với công năng và
quy mô khác nhau, bổ trợ nhau về tổng thể. Dự kiến đến năm 2030,
hệ thống cảng biển Việt Nam sẽ thông qua: 500 - 600 triệu tấn/năm
(năm 2015), 900 - 1.100 triệu tấn/năm (năm 2020) và 1.600 - 2.100
triệu tấn/năm (năm 2030).
Về thực trạng hệ thống cảng biển Việt Nam:
Ngành hàng hải đang quản lý và khai thác 330 cầu bến nằm
trên tổng chiều dài 39.951m (25.933m chiều dài bến hàng tổng hợp,
container và 13.958m chiều dài bến hàng chuyên dụng, gần gấp 2 lần
so với 1999) của 160 bến cảng toàn quốc. Sản lượng thông qua năm
2010 là 256 triệu tấn, trong đó có 6.510.000 TEUs container, hàng
lỏng 51,608 triệu tấn, hàng quá cảnh 29,489 triệu tấn; 35 luồng vào
các cảng quốc gia và 12 luồng vào các cảng chuyên dụng.
220
Trong những năm gần đây, tuy có nhiều cố gắng trong xây
dựng mới cũng như nâng cấp, hiện đại hóa số cảng biển có sẵn,
nhưng kết cấu hạ tầng của hệ thống cảng biển Việt Nam vẫn còn
yếu kém về quản lý khai thác và lạc hậu về khoa học-công nghệ so
với các quốc gia tiên tiến trong ASEAN và trong khu vực. Trước
hết là năng suất xếp dỡ thấp, chỉ đạt khoảng từ 45-50% mức tiên
tiến của thế giới (3000T - 4000T trên/m chiều dài cầu bến và 15 20 TEUs/cẩu/giờ đối với xếp dỡ container).
Đánh giá tổng quát cho thấy tuy số lượng có nhiều và được
phân bổ đều từ Bắc vào Nam, nhưng hiệu quả sử dụng và khai thác
rất thấp. Nguyên do là đầu tư dàn trải, địa phương mắc “hội chứng
cảng nước sâu” trong khi hàng hóa ít, điều kiện tự nhiên không cho
phép. Thứ hai là do quy hoạch hệ thống cảng biển thiếu tầm nhìn
xa, dự báo chưa chính xác, nặng về đối phó với tăng trưởng cục bộ,
nên không thể thiết lập được mạng lưới giao thông quốc gia đồng
bộ và hợp lý có nối kết chặt chẽ với hệ thống cảng biển. Điều này
đã làm suy yếu năng lực thông qua ở các cảng vốn là đô thị lớn
đang chịu sức ép dân số tăng trưởng nhanh, cũng như hạ tầng giao
thông xuống cấp nghiêm trọng. Đặc biệt là thiếu cảng nước sâu
theo đúng nghĩa của nó để tiếp nhận tàu cỡ 80.000 DWT trở lên
hay tàu container khoảng 6000 TEUs và chưa có cảng trung chuyển
quốc tế để ngành vận tải biển vươn ra toàn cầu. Việt Nam cũng
đang bỏ lỡ cơ hội nắm Logistics là lĩnh vực trọng yếu của dịch vụ
hàng hải được hình thành trong quá trình phát triển hệ thống cảng
biển, nay đã lên từ 8 - 10 tỷ USD/năm, phần lớn nằm trong tay
những tập đoàn Hàng hải quốc tế hoạt động tại Việt Nam.
221
92
Vài nét về hệ thống cảnh báo sóng
thần Việt Nam?
Về gốc gác, thuật ngữ “sóng thần” xuất phát từ tiếng Nhật
tsunami để chỉ các đợt sóng tạo nên khi một thể tích lớn của nước
đại dương bị chuyển dịch “ngang” chớp nhoáng trên một quy mô
lớn. Thuật ngữ này do các ngư dân đặt ra dù lúc đó họ không biết
nguyên do là sóng xuất phát ở ngoài xa khơi. Cơn sóng thần khởi
phát từ dưới đáy biển sâu chủ yếu do ảnh hưởng của động đất và
các dịch chuyển địa chất lớn (núi lửa phun, va chạm các mảng vỏ
đại dương, tách dãn đáy đại dương,...) mà các nhà khoa học gọi là
“hải chấn”. Khi còn ở ngoài xa khơi, chiều cao sóng khá nhỏ và
chiều dài sóng lại rất lớn, đến hàng trăm kilômét. Vì vậy, khi ở xa
bờ biển, đi trên tàu người ta cũng khó nhận diện ra nó, mà chỉ cảm
nhận như một “cơn sóng cồn” trải dài với các rung lắc nhẹ. Sóng
thần diễn biến rất khác biệt, chứa năng lượng cực lớn, lan truyền
với tốc độ cao và có thể vượt khoảng cách lớn qua đại dương mà chỉ
mất rất ít năng lượng. Một trận sóng thần có thể gây ra thiệt hại trên
bờ biển cách hàng nghìn cây số nơi nó phát sinh, vì thế chúng ta vẫn
có thể có thời gian chuẩn bị từ khi nó hình thành tới lúc ập vào một
khu vực bờ biển nào đó. Cho nên, vẫn có thể dự báo và cảnh báo thời
gian và sức mạnh của nó từ nơi xảy ra cho đến những khu bờ biển bị
tấn công.
Tại khu vực Thái Bình Dương, hệ thống cảnh báo sóng thần
quốc tế gồm hai trung tâm đầu não là: Trung tâm cảnh báo sóng
thần Thái Bình Dương của Mỹ (đặt tại đảo Hawaii) và Trung tâm tư
222
vấn sóng thần Tây Bắc Thái Bình Dương của Cục Khí tượng - Thủy
văn Nhật Bản. Việt Nam và các nước Đông Nam Á thuộc ven bờ
Tây Thái Bình Dương chưa có đủ điều kiện trang thiết bị và năng
lực quan trắc và phát hiện sóng thần từ giữa Thái Bình Dương, nên
phải khai thác, sử dụng thông tin trực tiếp từ các trung tâm đầu não
nói trên.
Từ bài học của các nước chịu thảm họa sóng thần Sumatra
năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo việc ứng phó
với thảm họa này nếu xảy ra. Ngày 06/11/2006, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quy chế về báo tin động đất và cảnh báo sóng
thần, và sau đó ngày 29/5/2007 lại tiếp tục ban hành Quy chế về
phòng chống động đất - sóng thần. Ngày 04/9/2007, Trung tâm Báo
tin động đất và Cảnh báo sóng thần thuộc Viện Vật lý Địa cầu,
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam được thành lập - là cơ quan
duy nhất đến nay được Chính phủ giao trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ này. Ngay sau đó Trung tâm đã trở thành thành viên chính thức
của hệ thống cảnh báo sóng thần khu vực và quốc tế. Trung tâm
làm việc theo chế độ trực ca 24/24 để đảm bảo phát hiện kịp thời
các hiểm họa động đất - sóng thần. Các công cụ xử lý số liệu tự
động cho phép định vị động đất chỉ sau 3-5 phút sau khi động đất
xảy ra. Theo Quy chế của Chính phủ, tất cả các trận động đất xảy
ra trên lãnh thổ Việt Nam với độ lớn từ 3,5 độ Richte trở lên, Trung
tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần Việt Nam phải thông
báo cho các cơ quan quốc gia có chức năng truyền thông và ứng
phó nhanh nhất để phối hợp hành động, đầu tiên là: Đài Truyền
hình và Đài Tiếng nói Việt Nam, Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão
Trung ương và Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm và Cứu nạn. Ngoài ra,
các cơ quan được cấp tin động đất, sóng thần là: Văn phòng Trung
ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
223
Thông tấn xã Việt Nam, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Công ty Thông tin
điện tử hàng hải Việt Nam, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam và Website Chính phủ.
Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần Việt Nam
đã được “thử sức” qua đợt động đất - sóng thần xảy ra ở Nhật Bản
năm 2011: sóng địa chấn từ trận động đất mạnh xảy ra tại Nhật Bản
đã được Việt Nam phát hiện chỉ sau 2-3 phút với các thông số được
xác định như độ lớn, tọa độ chấn tâm và độ sâu chấn tiêu. Một số
trận động đất khác ở Nhật Bản và Việt Nam gần đây cũng đã được
Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần Việt Nam ghi
nhận và cung cấp với sai số chỉ khoảng 0,1 so với thông tin của
Trung tâm Số liệu động đất Hoa Kỳ.
Cùng với sự trưởng thành nhanh chóng của hệ thống cảnh báo
sóng thần của Việt Nam, Chính phủ vẫn cần tiếp tục đầu tư mở
rộng và hiện đại hóa hệ thống các trạm địa phương, trạm quan trắc
mực nước biển ven bờ và Mạng lưới báo tin - cảnh báo và ứng phó
với động đất - sóng thần quốc gia. Phấn đấu xây dựng hoàn thiện
một hệ thống cảnh báo động đất - sóng thần quốc gia đồng bộ và
đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế trong tương lai gần
93
Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu
của lực lượng Hải quân Nhân
dân Việt Nam?
Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân
của Đảng, của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, là một phần của
224
Quân đội nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, mà trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương, sự
thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ
và sự quản lý, chỉ huy của Bộ Quốc phòng.
Quân chủng Hải quân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc;
duy trì sự ổn định trên các vùng biển, đảo; giữ vững chủ quyền,
không để xảy ra xung đột, tạo điều kiện thuận lợi, yên tâm cho các
lực lượng trên biển; phối hợp, hiệp đồng với các lực lượng bảo vệ
tốt việc thăm dò, khai thác dầu khí và các hoạt động kinh tế biển;
tích cực, chủ động thực hiện tốt vai trò làm nòng cốt trong các hoạt
động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển,
nhất là trên các vùng biển xa; thực sự là chỗ dựa tin cậy, vững chắc
cho các hoạt động kinh tế biển.
Quân chủng Hải quân không ngừng củng cố, xây dựng lực
lượng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của
toàn Quân chủng; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao; xây dựng
Quân chủng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại,
thực sự là lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
94
Chức năng và nhiệm vụ chính của
lực lượng Bộ đội Biên phòng Việt
Nam trên biển?
Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng,
của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, là một thành phần của Quân
225
đội nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, mà trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương, sự thống
lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ và sự
quản lý, chỉ huy của Bộ Quốc phòng.
Bộ đội Biên phòng phụ trách bảo vệ an ninh, chủ quyền lãnh
thổ quốc gia trên biên giới đất liền và trên biển. Căn cứ theo Pháp
lệnh Bộ đội Biên phòng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 28/3/1997, chức năng, nhiệm vụ chính của Bộ đội Biên
phòng Việt Nam trên biển như sau:
Chức năng
Bộ đội Biên phòng trên biển hoạt động theo pháp luật của
nước CHXHCN Việt Nam và theo các điều ước quốc tế có liên
quan đến chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo, vùng biển mà nước
CHXHCN Việt Nam ký kết tham gia; làm nòng cốt, chuyên trách
quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ tại các hải đảo, vùng
biển theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định và là một lực
lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ven biển.
Nhiệm vụ
- Bộ đội Biên phòng trên biển có nhiệm vụ đấu tranh ngăn
chặn các hành vi xâm phạm lãnh thổ, vượt biển, nhập cư trái phép,
khai thác trộm tài nguyên và những hành vi khác xâm phạm đến
chủ quyền, lợi ích quốc gia, gây hại đến môi trường trong vùng
biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam; chủ trì phối
hợp các ngành, địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ lãnh
thổ tại các hải đảo, vùng biển Việt Nam.
226
- Tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về biên giới quốc
gia của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các điều ước quốc tế có
liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán tại
các hải đảo, vùng biển mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc
tham gia.
- Đấu tranh chống âm mưu và hành động của các thế lực thù
địch, các lực lượng phản cách mạng, hải phỉ, các tội phạm khác
xâm phạm lãnh thổ trên các hải đảo, vùng biển Việt Nam.
- Phối hợp với các đơn vị khác của các lực lượng vũ trang
nhân dân và dựa vào nhân dân xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
huyện ven biển vững mạnh; sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu chống gây
xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược.
- Trực tiếp và phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ
trang nhân dân, các ngành chức năng của Nhà nước đấu tranh
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ,
chất độc hại, ma tuý, văn hoá phẩm độc hại, hàng hoá cấm xuất
khẩu, nhập khẩu qua biên giới trên đất liền, các hải đảo, vùng biển
theo quy định của pháp luật.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách dân
tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng
cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, xây
dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững
mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân
dân ở khu vực ven biển.
227
95
Chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ
chính của lực lượng Cảnh sát Biển Việt
Nam?
Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam là một trong những lực
lượng vũ trang nhân dân của nước CHXHCN Việt Nam, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch
nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ. Bộ Quốc phòng trực
tiếp quản lý và điều hành hoạt động của lực lượng Cảnh sát Biển
Việt Nam.
Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam
được quy định trong Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 03/2008/PL-UBTVQH12 ngày
26/01/ 2008 như sau:
Chức năng
Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách
của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an
toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước
quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên
trên các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam.
Nhiệm vụ
- Trên các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCN
Việt Nam, lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam có nhiệm vụ kiểm
tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên để
228
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán; giữ gìn an
ninh, trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống ô nhiễm môi
trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu,
vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái
phép hàng hoá, vũ khí, chất nổ, chất ma tuý, tiền chất và các hành
vi vi phạm pháp luật khác.
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên để góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, hòa
bình và ổn định trên các vùng biển.
- Thu thập, tiếp nhận thông tin, xử lý kịp thời và thông báo
cho cơ quan chức năng có liên quan theo quy định của pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên; tham gia tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục sự
cố trên biển và thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, tổ chức
ứng phó sự cố môi trường biển.
- Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân hoạt động trên biển; phối hợp với các lực lượng khác bảo
vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, tài sản của người và phương
tiện hoạt động hợp pháp trên các vùng biển và thềm lục địa của
Việt Nam; phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ trang để
bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên các hải đảo, vùng biển
thuộc lãnh thổ của nước CHXHCN Việt Nam và quyền chủ quyền,
quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước
CHXHCN Việt Nam.
229
Quyền hạn của Cảnh sát Biển Việt Nam được quy định tại
Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội số 03/2008/PL-UBTVQH12 ngày 26/01/2008 năm
như sau:
1. Khi phát hiện người và phương tiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước
CHXHCN Việt Nam là thành viên, lực lượng Cảnh sát Biển Việt
Nam có quyền kiểm tra, kiểm soát; nếu có hành vi vi phạm thì được
xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật, buộc người
và phương tiện đó phải chấm dứt hành vi vi phạm, rời khỏi vùng
nước đang hoạt động hoặc rời khỏi vùng biển Việt Nam; bắt, giữ
người và phương tiện phạm pháp quả tang, lập biên bản xử lý theo
thẩm quyền hoặc chuyển cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Trong trường hợp người và phương tiện vi phạm pháp luật
không chịu tuân theo hiệu lệnh, chống đối hoặc cố tình bỏ chạy thì
lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam có quyền cưỡng chế, thực hiện
quyền truy đuổi hoặc các quyền khác theo quy định của pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên.
3. Trong tình thế cấp thiết phải đuổi bắt người và phương
tiện vi phạm pháp luật, cấp cứu người bị nạn, ứng phó với sự cố
môi trường nghiêm trọng thì lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam
được quyền huy động người, phương tiện của cá nhân, tổ chức
Việt Nam, nhưng phải hoàn trả ngay khi tình thế cấp thiết chấm
dứt; trường hợp có thiệt hại về tài sản thì phải bồi thường. Người
được huy động làm nhiệm vụ mà bị thương hoặc bị chết thì được
230
giải quyết theo chính sách của Nhà nước; trong trường hợp không
có người, phương tiện của cá nhân, tổ chức Việt Nam để huy động
hoặc đã huy động nhưng vẫn chưa giải quyết được tình thế cấp
thiết, thì lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam có thể đề nghị người
nước ngoài, phương tiện của cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt
động trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam giúp đỡ
theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên
quan mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên.
4. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh và vì lợi ích quốc gia, người có thẩm quyền trong lực lượng
Cảnh sát Biển Việt Nam được quyền trưng dụng tài sản của cá
nhân, tổ chức Việt Nam theo quy định của pháp luật về trưng mua,
trưng dụng tài sản.
5. Khi thi hành nhiệm vụ, lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam
được nổ súng trong các trường hợp sau đây:
- Khi người vi phạm dùng vũ khí chống trả hoặc dùng biện
pháp khác trực tiếp đe doạ tính mạng và an toàn phương tiện của
Cảnh sát Biển Việt Nam;
- Khi truy đuổi người và phương tiện có hành vi vi phạm
nghiêm trọng, nếu không dùng vũ khí thì người và phương tiện đó
có thể chạy thoát;
- Để bảo vệ công dân khi bị người khác trực tiếp đe dọa
tính mạng.
Trong các trường hợp được nổ súng quy định ở trên, cán bộ,
chiến sĩ Cảnh sát Biển Việt Nam chỉ được bắn vào đối tượng sau
231
khi đã ra lệnh cho họ dừng lại hoặc nổ súng cảnh cáo mà không có
kết quả, trừ trường hợp cấp bách; đối với những trường hợp phức
tạp, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, an ninh quốc gia
thì phải báo cấp có thẩm quyền quyết định.
96
Nhiệm vụ và quyền hạn của lực
lượng kiểm ngư Việt Nam?
Kiểm ngư là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thuộc
Tổng cục Thủy sản trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, thực hiện chức năng tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện
xử lý vi phạm pháp luật và thanh tra chuyên ngành thủy sản trên
các vùng biển Việt Nam.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm ngư
1. Tham mưu, đề xuất và tham gia xây dựng cơ chế chính
sách, văn bản pháp luật quy định về công tác kiểm ngư theo sự
phân công, phân cấp.
2. Tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, phát hiện và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về thủy sản trên các vùng biển Việt
Nam theo quy định của pháp luật.
3. Xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với hành vi vi phạm pháp luật thủy sản của tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài hoạt động thủy sản trên các vùng
biển Việt Nam.
232
4. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp
thông tin, tài liệu cần thiết cho công tác tuần tra, kiểm tra, kiểm
soát, thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về thủy sản.
5. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật Việt Nam, pháp luật
quốc tế về thủy sản; hướng dẫn ngư dân và các tổ chức, cá nhân
hoạt động trên các vùng biển thực hiện các quy định pháp luật về
thủy sản.
6. Tham gia công tác phòng, chống thiên tai và phối hợp tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn; tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán của quốc gia trên các vùng biển theo quy
định của pháp luật.
7. Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về thủy sản theo
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Kiểm ngư
viên, công chức, viên chức và Thuyền viên tàu Kiểm ngư.
9. Thanh tra chuyên ngành và các nhiệm vụ khác được giao
theo quy định của pháp luật.
97
Việt Nam có những hoạt động phối
hợp chung nào với các quốc gia trong
khu vực nhằm bảo vệ trật tự, an
ninh trên Biển Đông?
Việt Nam nhận thức sâu sắc được việc duy trì hòa bình và
bảo vệ trật tự, an ninh trên Biển Đông chính là để duy trì hòa bình
233
và bảo vệ trật tự, an ninh của cả khu vực; đáp ứng nguyện vọng và
lợi ích chung của các quốc gia tiếp giáp Biển Đông cũng như các
quốc gia khác trên thế giới. Thời gian qua, Việt Nam đã tích cực
phối hợp chung với các nước trong khu vực tiến hành một số hoạt
động như:
- Việt Nam tham gia Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển
năm 1982, một số Công ước đa phương khác liên quan đến giao
thông hàng hải, an toàn trên biển.
- Tích cực thúc đẩy ký kết và kêu gọi các bên nghiêm túc
thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN
và Trung Quốc năm 2002 (DOC). Tháng 7/2011, tại In-đô-nê-xia
trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 44
(AMM-44), Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy các bên đạt được sự nhất trí và chính thức thông qua Quy tắc
hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông một văn kiện quan trọng có tính chất ghi dấu cho sự hợp tác giữa
Trung Quốc với các nước ASEAN đối với vấn đề Biển Đông, đồng
thời đặt nền tảng cho việc hướng tới một thỏa thuận có tính ràng
buộc pháp lý, đó là Bộ Quy tắc về ứng xử ở Biển Đông (COC).
- Bên cạnh đó Hải quân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam
cũng hợp tác với Hải quân, Cảnh sát biển các nước láng giềng như:
Trung Quốc, Cam-pu-chia, Phi-líp-pin, Xin-ga-po, Thái Lan… tiến
hành tuần tra chung, thiết lập đường dây nóng, hợp tác, diễn tập cứu
hộ, cứu nạn... Các hoạt động này đã đạt được nhiều kết quả, đem lại
lợi ích thiết thực cho hải quân và nhân dân các nước, góp phần tăng
234
cường tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước và xây dựng môi
trường hòa bình và ổn định trong khu vực.
Hàng năm, Việt Nam đón các tàu Hải quân của các nước tới
thăm như: Ấn Độ, Pháp, Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản; Trung Quốc, Mỹ,
Nga,...
- Việt Nam đã tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí
trong vùng chồng lấn với Ma-lai-xi-a; Việt Nam, Trung Quốc và
Phi-líp-pin đã ký và triển khai Hiệp định “Ba bên liên hợp thăm dò
địa chấn ở khu vực biển thoả thuận ở Biển Đông” năm 2005.
- Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực tham gia các diễn đàn khu
vực (ASEAN+1, ASEAN+3, ADM, ADMM, ARF, EAS,...), các
Hội nghị, Hội thảo quốc tế và đưa ra các sáng kiến, đề xuất có ý
nghĩa thiết thực nhằm duy trì hòa bình, bảo vệ trật tự, an ninh trên
Biển Đông.
98
Bạn hiểu như thế nào về Ngày đại
dương Thế giới (Ngày 8 tháng 6)?
Ngày Đại dương Thế giới 8/6 bắt đầu từ sáng kiến đề xuất
của Chính phủ Canada trong Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất tại Rio
de Janeiro vào năm 1992. Sau đó, Ngày Đại dương Thế giới 8/6 đã
được Ủy ban Hải dương học liên Chính phủ (IOC) của Ủy ban Văn
hóa, Khoa học và Giáo dục (UNESCO) thừa nhận vào Năm quốc tế
Đại dương 1998 tổ chức tại Lisbon (Bồ Đào Nha), khi ấy Việt Nam
235
cũng tham gia sự kiện này. Từ Cuộc họp quốc tế năm 2002 “Hành
động cùng nhau vì tương lai của Hành tinh xanh” với sự hỗ trợ của
Diễn đàn toàn cầu Đại dương, Vùng bờ và Hải đảo (GFOCI), Mạng
lưới Đại dương Thế giới (WON), Đề án Đại dương, Viện Đại dương
quốc tế (IOI), Diễn đàn Aquarium quốc tế,… hàng năm có hàng
trăm tổ chức của trên 50 quốc gia đã tổ chức trọng thể ngày này.
Ngày Đại dương Thế giới đã được xem là một sự kiện duy
nhất nhằm tôn vinh Đại dương Thế giới, và để bày tỏ mối quan tâm
gắn bó của loài người với biển và đại dương vì tương lai của chính
loài người. Mục tiêu chung của việc tổ chức Ngày Đại dương Thế
giới là nâng cao nhận thức cho công chúng và các nhà ra quyết định
về vai trò cực kỳ quan trọng của biển và đại dương trong đời sống
hàng ngày của chúng ta, và cổ vũ các hành vi “vì sự bền vững của
biển cả”.
Trên thế giới cứ đến ngày này, để hưởng ứng người ta đã tổ
chức một chuỗi sự kiện và hoạt đông như: các cuộc Tuần hành vì
đại dương, các Con đường xanh kết nối con người, thủy sản và thị
trường bền vững, Tọa đàm đại dương hòa bình, Thi nghệ thuật và
văn hóa biển, Xây dựng lâu đài cát, Cấp hộ chiếu cho công dân
đại dương,…
Đặc biệt, các quốc gia có biển trên thế giới đã thông qua lần
đầu tiên “Tuyên bố Đại dương Manado” tại Hội nghị Đại dương thế
giới tổ chức ở In-đô-nê-xia ngày 14/5/2009, mà Thủ tướng Chính
phủ đã ủy quyền Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thay mặt
Việt Nam tham gia thảo luận và thông qua tuyên bố nói trên.
236
Nhờ những nỗ lực toàn cầu không mệt mỏi nói trên, từ năm
2009 Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã chính thức thông qua chủ
trương kỷ niệm hàng năm Ngày Đại dương Thế giới 8 tháng 6 ở các
nước thành viên. Mỗi năm Cục Đại dương và Luật Biển của Liên
Hợp quốc với sự giúp đỡ của Mạng lưới Đại dương toàn cầu chọn,
công bố một chủ đề và cũng là thông điệp của ngày này. Chủ đề
Ngày Đại dương thế giới năm 2009 là ‘Chúng ta chỉ có chung một
đại dương, một bầu khí quyển và một tương lai’ (One Ocean, One
Climate, One Future). Chủ đề năm 2010 là “Đại dương của cuộc
sống” (Ocean of Life),...
Đây là chủ đề bao trùm về đại dương với tư cách là hệ thống
hỗ trợ cho sự sống trên Trái đất và đặc biệt về vai trò và mối quan
hệ của đại dương với việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu
trên toàn Trái đất.
99
Vài nét về Tuần lễ Biển và Hải đảo
Việt Nam (từ ngày 01 đến ngày 07
tháng 6 hàng năm)?
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước
về biển và hải đảo vì sự phát triển bền vững đất nước, cũng như ý
nghĩa trọng đại của Ngày Đại dương Thế giới 8/6, năm 2008, Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam, ngay từ những tháng đầu thành lập
đã đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cho phép tổ chức một Tọa
đàm về ngày này. Cuộc tọa đàm đã thu hút sự quan tâm của nhiều
bộ, ngành Trung ương và các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ
237
ở Việt Nam. Và những người tham gia tọa đàm nhận thấy cần phải
tổ chức Tháng hoặc Tuần lễ biển đảo cho Việt Nam để có những
hành động thiết thực hưởng ứng Ngày Đại dương Thế giới 8/6.
Trong quá trình soạn Nghị định Chính phủ về Quản lý tổng
hợp tài nguyên và Bảo vệ môi trường biển, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã đồng ý đề xuất của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
đưa vào dự thảo nghị định này “Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam
để hưởng ứng Ngày Đại dương Thế giới 8/6 và Ngày Môi trường
Thế giới 5/6”. Ngày 06/3/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi
trường biển, hải đảo, trong đó có yêu cầu tổ chức hàng năm “Tuần
lễ Biển và Hải đảo Việt Nam” để hưởng ứng Ngày Đại dương Thế
giới 8/6.
Biển và đại dương là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về
các nguồn lương thực, thực phẩm, năng lượng và nguyên nhiên liệu.
Nhưng sự hiểu biết kỹ lưỡng về chúng lại chủ yếu thuộc về các nhà
khoa học và các nhà quản lý chuyên ngành, trong khi để quản lý,
khai thác lâu dài nguồn lợi khổng lồ này lại cần đến sự tham gia
của các bên liên quan, của người dân ven biển và của toàn xã hội.
Biển nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên, là nơi nương tựa của
hàng chục triệu người dân đất Việt, là không gian sinh tồn của dân
tộc, là địa bàn chiến lược trong bảo vệ và phát triển đất nước, là
phần Tổ quốc thiêng liêng trên biển của đất nước ta trong bối cảnh
hội nhập quốc tế,… Vì vậy, việc tổ chức thành công hàng năm
“Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam” với các hoạt động thiết thực đối
với đất nước và bắt nhịp với yêu cầu thời đại, sẽ góp phần nâng cao
nhận thức cho toàn xã hội, toàn hệ thống chính trị và từng người
238
dân về chức năng, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển và đại
dương đối với sự phát triển bền vững đại dương, đối với việc giảm
thiểu các tác động của biến đổi khí hậu thế giới nói chung và đối với
Việt Nam nói riêng. Từ đó khơi dậy ý thức bảo vệ tài nguyên và môi
trường biển, lòng tự hào, ý thức dân tộc của mọi người dân Việt Nam
đối với chủ quyền vùng biển của Tổ quốc, đối với chính cuộc sống
của cộng đồng và đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển lâu dài
của đất nước, góp phần “đưa nước ta trở thành một quốc gia giàu lên
từ biển, mạnh lên từ biển” theo tinh thần Chiến lược Biển Việt Nam
đến năm 2020.
Ngày 12/6/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số
950/TTg-KTN công nhận Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam và
giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương ven biển tổ chức Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt
Nam từ ngày 01 đến ngày 08 tháng 6 hàng năm để hưởng ứng Ngày
Đại dương Thế giới (8/6).
Từ đó tới nay Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam đã trở thành
một sự kiện được tổ chức thường niên nhằm tôn vinh thế mạnh và
tiềm năng của biển, hải đảo Việt Nam, nhằm khơi dậy ý thức trách
nhiệm với biển và chủ quyền vùng biển đất nước. Thông qua những
hoạt động thiết thực được tổ chức, sự kiện đã thu hút và tạo được sự
quan tâm, ủng hộ của dư luận xã hội.
Việc Chính phủ chính thức cho phép Bộ Tài nguyên và Môi
trường tổ chức kịp thời Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam từ năm
2009 (từ ngày 1-8/6) phải được xem là một “mốc sự kiện” có ý
nghĩa lịch sử trong lĩnh vực quản lý biển và hải đảo không chỉ ở
nước ta, mà cả đối với cộng đồng đại dương thế giới.
239
Thông điệp quảng bá Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2011
240
100
Học
Học sinh, sinh viên Việt Nam cần có
ý thức và trách nhiệm như thế nào
trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của ta trên Biển Đông?
sinh, sinh viên (HSSV) là lực lượng trẻ, có tri thức
trong xã hội, là tương lai của đất nước, là tầng lớp đi tiên phong
trong các hoạt động thúc đẩy cộng đồng quan tâm và có trách nhiệm
đối với những vấn đề liên quan đến môi trường, bảo vệ môi trường,
phát huy tiềm năng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Chúng ta cần quán triệt lập trường nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta là Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa; chủ quyền đối với vùng nội thủy, lãnh
hải; quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982. Chủ trương của ta là giải quyết các
tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, luật pháp và
thực tiễn quốc tế, Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982
và Tuyên bố giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) năm 2002. Với lập trường và chủ trương đúng
đắn đó, Việt Nam đã chủ động, tích cực triển khai đồng bộ một loạt
công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền và
lợi ích của ta trên Biển Đông.
241
HSSV đi đầu trong việc tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho cộng đồng về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển
và hải đảo Việt Nam. Đồng thời tranh thủ các nguồn lực và sự ủng
hộ từ hợp tác quốc tế với các nước bè bạn và các tổ chức quốc tế
trên mọi lĩnh vực.
Tăng cường học tập, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục pháp luật
về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven
biển, hải đảo.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa,
ứng phó, kiểm soát và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố môi
trường biển.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu biển Việt Nam.
Góp phần tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia
biển và hội nhập quốc tế trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền
vững biển, đảo.
Khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia vào học các ngành
nghề liên quan tới biển, đảo.
242
Phụ lục
TÌM HIỂU MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH NIÊN HƯỚNG VỀ
BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
243
244
1
Bạn hãy cho biết Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh phát động Cuộc vận động
“Nghĩa tình biên giới hải đảo” vào
thời gian nào? Nội dung chính của
Cuộc vận động?
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động cuộc vận
động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo” vào năm 1998 với ba nội
dung chính:
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền giới thiệu về biên giới,
hải đảo để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mình về chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Kêu gọi mỗi đoàn viên, thanh thiếu nhi hãy dành dụm tiết
kiệm chi tiêu trong sinh hoạt, quyên góp ủng hộ bằng tiền mặt hoặc
hiện vật cho đồng bào chiến sĩ, thanh thiếu nhi đang sinh sống và
làm nhiệm vụ tại biên giới, hải đảo.
- Các cấp bộ Đoàn tổ chức và duy trì có hiệu quả hoạt động
giao lưu kết nghĩa và đăng ký các công trình phần việc thanh niên
góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió.
Đến nay, qua 15 năm hoạt động, các nội dung của Cuộc vận
động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo” đã được các cấp bộ Đoàn,
Hội, Đội xác định là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên với các nội
dung hình thức phong phú sinh động phù hợp với tính thời sự của
từng giai đoạn lịch sử. Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X nhiệm kỳ
2012 - 2017 đã đánh giá kết quả nhiệm kỳ 2007 - 2012, Cuộc vận
động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo” có bước phát triển, góp phần
245
nâng cao nhận thức của Đoàn viên, thanh niên về lãnh thổ và chủ
quyền của Tổ quốc, tiêu biểu như các hoạt động: Hành trình tuổi trẻ
vì biển đảo quê hương, hành trình theo dấu tích đường Hồ Chí
Minh trên biển - Học kỳ trên biển, Xuân biên giới - Tết hải đảo,
Mái ấm biên cương, Nốt nhạc biên cương... đồng thời xác định
nhiệm kỳ 2012 - 2017 tiếp tục triển khai có hiệu quả cuộc vận động
“Nghĩa tình biên giới, hải đảo” .
2
Bạn có biết thông tin về chương
trình “Góp đá xây Trường sa” do
Trung ương Đoàn và báo Tuổi trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh phát động?
Mục đích, ý nghĩa của chương trình?
Chương trình "Góp đá xây Trường Sa" là chương trình được
xuất phát từ kết quả của việc bạn sinh viên Nguyễn Phan Hà Châu Ủy viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương TP.HCM khi được Trung ương Đoàn lựa chọn tham gia
hành trình "Tuổi trẻ vì biển đảo quê hương" năm 2011 đã mang
theo một nắm đất liền ra đảo để góp phần làm cho đảo bớt nhỏ
trước biển. Câu chuyện nhiều cảm xúc và đầy ý nghĩa này là một
gợi ý cho Báo Tuổi trẻ, sau khi được sự đồng ý của Ban Bí thư
Trung ương Đoàn - Báo Tuổi trẻ đã phát động chương trình "Góp
đá xây Trường Sa". Chương trình không chỉ tác động trong phạm vi
của Đoàn TN mà lan tỏa ra xã hội. Đến nay, chương trình đã nhận
được sự đóng góp của hàng chục vạn tập thể, cá nhân, mà trong số
họ, có những người đi bán ve chai, những em học sinh nhỏ nhịn ăn
sáng, có thanh niên công nhân để dành phần tiền tăng ca, hoặc cụ
246
già trước khi "quy tiên" đã dặn con cháu sử dụng tiền phúng điếu
"làm việc nước"... Tính đến tháng 3/2013, chương trình "Góp đá
xây Trường Sa" đã nhận được hơn 50 tỉ đồng đóng góp, cho thấy
tình cảm, trách nhiệm, sự tự nguyện của thanh niên, nhân dân trước
các vấn đề biển đảo... là vô cùng to lớn.
3
Bạn cho biết thông tin về chương trình
“Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra
khơi” do báo Thanh Niên phát động?
Mục đích, ý nghĩa của chương trình?
Thiên tai luôn là nỗi ám ảnh ngư dân trong mùa mưa bão;
mặt khác, cũng có các trường hợp ngư dân trẻ mất tàu, mất ngư cụ,
trang thiết bị, hải sản vừa đánh bắt… khi bị uy hiếp bởi tàu nước
ngoài xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Trong những
rủi ro ấy, đã có gia đình ngư dân bị khánh kiệt, mất nhà cửa, con cái
không được đi học…
Đây chính là mối quan tâm của toàn xã hội, bởi lực lượng ngư
dân trẻ, ngoài việc làm ăn sinh sống, còn là lực lượng quan trọng
góp phần phát triển kinh tế biển, khẳng định chủ quyền của Việt
Nam trên biển Đông.
Cụ thể hóa các kế hoạch công tác của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội LHTN VN trong Năm Thanh niên 2011, để có hành
động thiết thực giúp đỡ, hỗ trợ ngư dân trẻ khi gặp hoạn nạn và tiếp
sức cho họ yên tâm bám biển, được sự đồng ý của Ban Bí thư T.Ư
Đoàn, ngày 23/6/2011, Báo Thanh Niên chính thức phát động
chương trình “Đồng hành với ngư dân trẻ ra khơi”.
247
Chương trình nhằm: hỗ trợ ngư dân trẻ các loại phương tiện,
máy móc, ngư cụ đã bị tổn thất do gặp thiên tai hoặc do gặp sự xâm
phạm trên biển; giúp đỡ trang thiết bị thông dụng trên tàu để có thể
liên lạc với đất liền và liên lạc để hỗ trợ, ứng cứu cho nhau; hỗ trợ
cho con em gia đình ngư dân trẻ hoàn cảnh quá khó khăn được đến
trường; hỗ trợ giáo viên và thầy thuốc trẻ tình nguyện phục vụ đảo
xa; giúp đỡ kịp thời cho gia đình một số trường hợp ngư dân trẻ bị
thương vong, mất tích khi bám ngư trường; góp phần hỗ trợ về tinh
thần và vật chất cho lực lượng kiểm ngư làm nhiệm vụ trên biển.
4
Bạn cho biết về mục tiêu xây dựng
đảo thanh niên, kể tên và quá trình
thành lập những đảo thanh niên
hiện nay mà bạn biết?
Mục tiêu xây dựng đảo thanh niên là phát huy vai trò xung
kích sáng tạo của tuổi trẻ, trực tiếp là Thanh niên xung phong tình
nguyện ra đảo định cư lâu dài, ổn định để hình thành một đơn vị
hành chính mới, nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của đảo kết hợp
bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển quốc gia, gắn với phát triển
kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Thông qua đó, giáo
dục tinh thần lao động, ý chí vượt khó; giáo dục truyền thống yêu
nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Trong những năm
qua, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã xây dựng Đề án và
được Thủ tướng Chính phủ đồng ý phê duyệt đảo Thanh niên Bạch
Long Vĩ và đảo Thanh niên Cồn Cỏ.
- Đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ: Bạch Long Vĩ có diện tích
khoảng 2,7 km2 khi thủy triều cao và 3,2 km2 khi thủy triều thấp,
248
nằm giữa ngư trường vịnh Bắc Bộ, là đảo xa bờ nhất trên vịnh Bắc
Bộ, cách Hải Phòng 133 km và cách đảo Hải Nam (Trung Quốc)
khoảng 130 km. Năm 1957, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập đơn vị hành chính cấp xã thuộc UBND thành phố Hải Phòng.
Cuối năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,
toàn bộ ngư dân được di chuyển vào đất liền, từ đó chỉ còn lực
lượng vũ trang trên đảo. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh và Thành ủy thành phố Hải Phòng, ngày
26/2/1993 Thành đoàn Hải Phòng đã tổ chức Đội thanh niên xung
phong với 62 đội viên ra lập nghiệp tại đảo, xây dựng quê hương
mới, góp phần bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Để góp phần cùng quân
dân huyện đảo Bạch Long Vĩ đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội kết hợp bảo vệ quốc phòng an ninh, phát huy vai trò xung
kích của tuổi trẻ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trên cơ sở
nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảo của Đoàn Thanh niên cộng
sản Cu Ba, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đề xuất sáng
kiến phối hợp với UBND thành phố Hải Phòng xây dựng đảo Bạch
Long Vĩ thành Đảo Thanh niên. Dự án xây dựng Đảo Thanh niên
đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý tại Văn bản số 3110/VPCPNC ngày 12/8/1998.
- Đảo Thanh niên Cồn Cỏ: Đảo Cồn Cỏ cách bờ biển Vĩnh
Linh, Quảng Trị 27 km về phía Đông, cách cảng Cửa Việt 30 km,
diện tích khoảng 2,3 km2. Cồn Cỏ là đảo tiền tiêu có vị trí quan
trọng về quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế biển ở khu vực
cửa vịnh Bắc Bộ. Chính vì vậy trong phân định vịnh Bắc Bộ giữa
Việt Nam và Trung Quốc, đảo Cồn Cỏ được sử dụng làm một điểm
đóng cửa vịnh và được hưởng 50% hiệu lực. Trong tương lai, Cồn
249
Cỏ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong phân định ranh giới
biển giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển ngoài cửa vịnh
Bắc Bộ. Xuất phát từ vị trí quan trọng của đảo trong chiến lược bảo vệ
Tổ quốc, trên cơ sở kinh nghiệm xây dựng đảo Thanh niên Bạch Long
Vĩ, năm 2001, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Trị đồng trình và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý
cho xây dựng đảo Cồn Cỏ thành đảo Thanh niên.
- Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đang lập đề án thí
điểm xây dựng đảo Thanh niên toàn quốc giai đoạn 2011 - 2020.
Bao gồm: Tiếp tục xây dựng Đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ, thành
phố Hải Phòng; Đảo Thanh niên Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị và xây
dựng mới Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh, Đảo Hòn Chuối, tỉnh cà
Mau và Đảo Thổ Chu, tỉnh Kiên Giang.
Bạn cho biết thông tin về “Hành
5
trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương”
do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh tổ chức, chủ đề của “Hành
trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương”
từ năm 2009 đến nay là gì?
Hành trình “Tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” là một trong
những hoạt động nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa
X) của Đảng về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; Kết
luận số 156KL/TWĐTN ngày 15/01/2009 của Ban Thường vụ
Trung ương Đoàn về một số giải pháp đẩy mạnh Cuộc vận động
“Nghĩa tình biên giới hải đảo” giai đoạn 2008 - 2012; Biên bản ghi
250
nhớ giữa Trung ương Đoàn và Bộ Tư lệnh Hải quân về việc phối
hợp hoạt động giai đoạn 2008 - 2012.
Với chủ đề “Doanh nhân ra biển, sinh viên ra đảo”, Hành
trình đã thể hiện tình cảm, trách nhiệm của tuổi trẻ cả nước vì
Trường Sa thân yêu; thể hiện tinh thần yêu nước và lòng nhiệt
huyết của tuổi trẻ, tham gia ủng hộ, giúp đỡ xây dựng các điểm
đảo, chung sức bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, lãnh hải,
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc.
Hành trình “Tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” là dịp để tuyên
truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước, tình yêu biển đảo,
khơi dậy tình cảm và ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc bảo
vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, góp phần thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của
đất nước. Đồng thời, động viên, cổ vũ quân và dân làm nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong quá trình diễn ra Hành trình, các đại biểu sẽ được phân
thành các Trung đội, cùng tổ chức và tham gia các hoạt động trên
tàu và tại các điểm đảo, Nhà giàn DK1, được thăm, tặng quà và tìm
hiểu cuộc sống và giao lưu với quân và dân trên các đảo thuộc
huyện đảo Trường Sa, được tham gia các cuộc thi ảnh, thi kỹ năng,
sáng tác văn, thơ, các bài hát, các hoạt động văn hóa văn nghệ…
nhằm phát huy năng khiếu của các cá nhân, tập thể trên tàu; tham
gia viết nhật ký “Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương”; tham
gia các buổi nói chuyện chuyên đề, xem phim tư liệu, phát thanh
trên hệ thống loa truyền thanh của tàu nhằm ôn lại truyền thống vẻ
vang của lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng và Công
ước Luật Biển quốc tế.
251
252
TÀI LI U THAM KH O CHệNH
1. Lê Đức An, 2008, Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam: Tài nguyên
và Phát triển, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
2. Ban chấp hành TW Đảng, 2008, Nghị quyết số 09/2007/NQTW khóa X về ban hành Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020, Hà Nội.
3. Nguyễn Bá Diến (Ch biên), 2006, Chính sách pháp luật biển
của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững, Sách chuyên
khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
4. Nguyễn Bá Diến (Ch biên), 2012, Thềm lục địa trong pháp
luật quốc tế, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
5. Nguyễn Chu Hồi, 2005, Giáo trình Cơ sở Tài nguyên và Môi
trường biển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Chu Hồi (Ch biên), 2007, Tầm nhìn kinh tế biển và
phát triển ngành thủy sản, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Chu Hồi (Ch biên), 2007, Chính sách ngành thủy
sản Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Lê Quý Quỳnh (Ch biên), 2012, Các hiệp định phân định
biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
253
9. Liên Hợp quốc, 1982, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển
1982 (Bản dịch tiếng Việt), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
10. Quốc Hội CHXHCN Việt Nam, 2003, Luật Thủy sản, Hà Nội.
11. Quốc Hội CHXHCN Việt Nam, 2008, Luật Dầu khí (sửa đổi),
Hà Nội.
12. Quốc Hội CHXHCN Việt Nam, 2012, Luật Biển Việt Nam,
Hà Nội.
13. Trần Công Tr c (Ch biên), 2011, Dấu ấn Việt Nam trên
Biển Đông, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
14. Đào Mạnh Sơn, Vũ Việt Hà, Đặng Văn Thi, Nguyễn Viết
Nghĩa, Bách Văn Hạnh, Mai Công Nhuận, 2005, Nguồn lợi
hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005, Viện Nghiên
cứu Hải sản, Hải Phòng.
15. Lê Đức Tố và nhóm nghiên cứu, 2005, Quản lý biển, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17.
y ban Hải dương học liên Chính ph , 2010, Chính sách
biển quốc gia (bản dịch tiếng Việt), Hà Nội.
18. Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2009, Biển Đông:
tập I, II, III, IV. Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ,
Hà Nội.
254
Chịu trách nhiệm xuất bản
Nguy n Thị Thu Hà
Biên tập:
Lê Đắc Quang
Nguyễn Thị Lê
Hà Duy Biển
Trình bày mỹ thuật: Nguyễn Tuấn Đạt
Sửa bản in:
Nguyễn Thị Lê
Trình bày bìa:
Họa sỹ Trần Hồng Minh
Nhµ xuÊt b¶n th«ng tin vµ truyÒn th«ng
Website: www.nxbthongtintruyenthong.vn
Trô së chÝnh: Số 9/90 Ngụy Như Kon Tum, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội
§T Biªn tËp: 04.35772141
§T Ph¸t hµnh: 04.35772138
Fax: 04.35579858
E-mail: nxb.tttt@mic.gov.vn
Chi nh¸nh TP. Hå ChÝ Minh: 8A §ưêng D2, phưêng 25, QuËn B×nh Th¹nh, TP. Hå ChÝ Minh
§iÖn tho¹i: 08.35127750, 35127751
Fax: 08.35127751
E-mail: cnsg.nxbtttt@mic.gov.vn
Chi nh¸nh TP. §µ N½ng: 42 TrÇn Quèc To¶n, quËn H¶i Ch©u, TP. §µ N½ng
§iÖn tho¹i: 0511.3897467
Fax: 0511.3843359
E-mail: cndn.nxbtttt@mic.gov.vn
255
In 1.500 b¶n, khæ 14,5 20,5 cm t¹i C«ng ty TNHH In vμ DVTM Phó ThÞnh
Sè ®¨ng ký kÕ ho¹ch xuÊt b¶n: 102-2013/CXB/8-04/TTTT
Sè quyÕt ®Þnh xuất bản: 209/Q§-NXB TTTT ngμy 16/8/2013
In xong vμ nép l−u chiÓu quý III năm 2013
M∙ sè: KK 41 HM 13
256