Nhóm 12
Danh sách thành viên
Nguyễn Đức Hà*
Nguyễn Xuân Huy
Phan Đức Hiếu
Trần Thanh Quí
Phạm Thị Hằng
Trịnh Khắc Hùng
Mục Lục
Lời mở đầu …………………………………………………………………………1
Nội dung …………………………………………………………………………...3
I. FDI trong công nghiệp …………………………………………………………..3
1. Giới thiệu chung ………………………………………………………………...3
2. Phân loại FDI …………………………………………………………………...5
3. Đặc điểm và tác động của FDI …………………………………....…………….7
4. Các nhân tố tác động đến việc thu hút FDI ……………………………………15
5. Vai trò của FDI trong phát triển công nghiệp …………………………………20
6. Các giải pháp thu hút FDI trong công nghiệp …………………………………25
II. Tình hình thu hút FDI trong công nghiệp ……………………………………..33
1. Tổng quan về dòng vốn FDI vào Việt Nam 1988-2014………………………. 33
2. Khung chính sách thu hút FDI………………………………………………… 35
3. Thực trạng thu hút vốn FDI vào công nghiệp của Việt Nam ………………….48
4. Kiến nghị chính sách …………………………………………………………..55
Kết luận …………………………………………………………………………..67
Tư liệu tham khảo ………………………………………………………………...68
Danh sách bảng, biểu đồ
Bảng 1: Những thay đổi chính trong chính sách FDI trong từng sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Bảng 2: So sánh chính sách FDI quan trọng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực và quá trình chuyển đổi
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép vào ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến năm 2013.
Biểu đồ1 : Số dự án FDI trong các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến 2013.
Biểu đồ 2: Tổng số vốn đăng kí của các dự án FDI trong các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến 2013
Biểu đồ 3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu vực kinh tế từ năm 2008 đến năm 2013
Danh sách kí tự viết tắt
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
ASEM Diễn đàn hợp tác Á–Âu
CIEM Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GSO Tổng cục Thống kê
JETRO Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản
MFN Đãi ngộ Tối huệ quốc
MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
R&D Nghiên cứu và phát triển
SMEs Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
SOEs Các doanh nghiệp nhà nước
UNCTAD Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
Lời mở đầu
Trong gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu kinh tế - xã hội hết sức thuyết phục. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 5,8%, và GDP bình quân đầu người tăng 5,7% trong giai đoạn 2010-2014. Trong khi đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ khoảng 80% năm 1986 xuống còn khoảng 6% trong năm 2014. Trong 30 năm qua, Việt Nam luôn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh chóng, với xóa đói giảm nghèo mạnh, trên thế giới.
Những thành tựu đầy hứa hẹn của quá trình chuyển đổi kinh tế là kết quả của các chính sách cải cách mà Việt Nam đã được thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra. Kể từ cuối năm 1980, Việt Nam đã chủ trương hội nhập kinh tế, bắt đầu với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987, và những bản hợp đồng của số hiệp định thương mại song phương và đa phương. Việt Nam gia nhập ASEAN, APEC, và Diễn đàn hợp tác Á Âu (ASEM) vào năm 1995, 1998 và 2001, tương ứng. Các thỏa thuận gần đây nhất và quan trọng là Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ. Đặc biệt là ngày 11 tháng 1 năm 2007, VIệt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nến kinh tế quốc tế.
Ngoài chính sách thương mại cởi mở hơn, môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện hơn, đặc biệt là khuôn khổ pháp lý để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việt Nam đã ký kết các thỏa thuận song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có nhiều tiến bộ hơn quy định hiện hành theo quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài, với 45 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những nỗ lực của Chính phủ để thu hút dòng vốn FDI đã tạo ra kết quả đáng khích lệ. Trong vòng 12 tháng của năm 2014, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt ngưỡng 20,23 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp đã được công nhận như là một bộ phận chính thức của nền kinh tế với sự đóng góp ngày càng tăng vào GDP. Bên cạnh đó, khu vực này cũng tạo thêm việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, và tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Trong đó vốn đầu tư trực tiếp chảy vào khu vực Công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt công nghiệp chế biến, chế tạo là những lĩnh vực thu hút nhiều vốn FDI nhất, chiếm đến 91,3% vốn đăng kí vào tháng 1 năm 2014. Qua đó cho thấy khả năng thu hút vốn FDI của khu vực công nghiệp là rất cao, nhất là khi đất nước đang trong thời kì Công nghiệp hóa Hiên đại hóa thì vai trò thu hút vốn vào công nghiệp tiếp tục được đánh giá cao.
Tuy nhiên, đã có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn mất lợi thế để thu hút nhiều dòng vốn FDI hơn cũng như để tối đa hóa lợi ích của nó. Hầu hết các dự án FDI có quy mô nhỏ, với công nghệ vừa phải có nguồn gốc chủ yếu từ châu Á. Đặc biệt, Việt Nam vẫn chưa là một điểm đến hoàn hảo cho đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia nhất với công nghệ cao và chuyển giao kiến thức. Tình trạng này, cùng với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ Trung Quốc và các nước khác trong khu vực trong việc thu hút dòng vốn FDI, đang đặt ra những thách thức lớn đối với Việt Nam.
NỘI DUNG
I. FDI trong công nghiệp:
1. Giới thiệu chung về FDI:
1.1. Khái niệm:
Trên thế giới có rất nhiều cách diễn giải khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tùy theo góc độ tiếp cận của nhà kinh tế. Theo IMF: “ FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư”. Theo giáo trình kinh tế đầu tư đại học Kinh Tế Quốc Dân, FDI (foreign direct investment) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà chủ sở hữu vốn (thường là doanh nghiệp) mang nguồn lực của mình sang một quốc gia khác để thực hiện đầu tư, trong đó chủ sở hữu vốn trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư.
Mục đích tìm kiếm nhà đầu tư trong hình thức FDI là tìm kiếm lợi nhuận, vì vậy những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao sẽ thu hút nguồn vốn này. Tiếp nhận nguồn vốn này, nước nhận đầu tư không phải đối mặt với ràng buộc nào vì đây không phải là vốn vay. Hình thức hợp tác quốc tế trong đầu tư thông qua FDI xuất hiện phổ biến trên thế giới vào cuối những năm 50 của thế kỉ XX khi các doanh nghiệp của Mỹ ồ ạt mở rộng chi nhánh sản xuất của mình sang các nước phát triển khác ở châu âu và ngược lại.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được hình thành từ mọi thành phần kinh tế: chính phủ, doanh nghiệp, tư nhân nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước nhận nguồn vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang toàn bộ tài nguyên kinh tế vào nước nhận đầu tư do vậy nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là ngành đòi hỏi cao về công nghệ kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Do vậy nguồn vốn này có vai trò cực kì quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận vốn.
1.2. Đặc điểm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
Chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc những pháp luật mà nước sở tại quy định đối với hoạt động đầu tư của mình.
FDI không để lại gánh nặng nợ cho nước nhận đầu tư như hỗ trợ phát triển chính thức hay đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành cổ phiếu ra nước ngoài ….
FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước đầu tư.
FDI không chỉ đơn thuần là vốn mà còn kèm theo là công nghệ kĩ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra sản phẩm mới, thị trường mới …cho nước tiếp nhận vốn đầu tư.
FDI thường tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao vì mục tiêu của nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận.
2. Phân loại FDI:
Chúng ta có nhiều cách phân loại hoạt động FDI dựa trên các tiêu chí như: tỷ lệ sở hữu vốn của chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục tiêu thực hiện đầu tư và phương thức đầu tư.
2.1. Theo tỉ lệ sở hữu vốn:
Theo tỉ lệ sở hữu vốn thì FDI chia thành 2 nhóm là vốn hỗn hợp và doanh nghiệp 100% vốn FDI
Hình thức vốn hỗn hợp: đây là hình thức doanh nghiệp có các bên nước ngoài và trong nước cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi, cùng chia sẻ rủi ro theo tỉ lệ vốn góp. Thông thường nhà đầu tư không được góp vốn ít hơn tỉ lệ đã được quy định trong luật của nước nhận đầu tư. Vì đây là hình thức kinh doanh liên kết giữa trong và ngoài nước nên có tính độc lập cao, phát huy thế mạnh mỗi bên, các bên không phải chịu trách nhiệm liên đới.
Hình thức 100% vốn FDI: doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập ở nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hình thức này bảo đảm độc lập cho nhà đầu tư, họ không bị lệ thuộc, chia sẻ quyền lợi với một bên nào khác. Đồng thời nước sở tại không phải bỏ vốn, không tham gia quản lý nhưng vẫn có được nguồn thu từ doanh nghiệp và giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, đối với nước đầu tư thì lĩnh vực kinh doanh bị hạn chế hơn do nước sở tại không cho phép và nếu nhà đầu tư không hiểu rõ về pháp luật, văn hóa, chính trị, nguồn lao động, thị trường của nước sở tại thì rất dễ bị thiệt hại, gặp trắc trở trong kinh doanh. Đồng thời vì không tham gia hoạt động kinh doanh nên các nhà quản lý rất khó kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp này. Nếu hình thức này thực hiệ tràn lan nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp trong nước vì doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài co nguồn vốn lớn và nhiều kinh nghiệm trong chiến lược kinh doanh.
2.2. Theo mục tiêu đầu tư:
Theo mục tiêu đầu tư thì FDI có 2 dạng là đầu tư theo chiều dọc và đầu tư theo chiều ngang.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang là việc 1 công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành họ đang có lợi thế cạnh tranh. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao ở thị trường nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp theo chiều dọc khác với theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ, đất đai, lao động của nước nhận đầu tư. Sản phẩm sau đó hướng đến xuất khẩu sang nước khác hoặc nhập ngược trở lại nước đi đầu tư. Đây là hình thức đầu tư khá phổ biến của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đang phát triển.
2.3. Theo phương thức đầu tư:
Theo phương thức đầu tư có 2 dạng là đầu tư mới và mua lại và sác nhập (M&A)
Đầu tư mới là việc nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển nguồn lực sang một quốc gia khác và hình thành nên một cơ sở sản xuất kinh doanh mới.
M&A : nhà đầu tư nước ngoài thực hiện việc mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp ở quốc gia khác, hoặc sát nhập một phần hay toàn bộ doanh nghiệp của mình với doanh nghiệp của quốc gia khác. Kết quả của M&A là không tạo ra cơ sở sản xuất kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư.
2.4. Theo lĩnh vực thu hút FDI:
Theo lĩnh vực thu hút nguồn vốn FDI, có thể chia làm:
FDI trong khu vực I: Nông, lâm ngư nghiệp.
FDI trong khu vực II: Công nghiệp – xây dựng.
FDI trong khu vực III: Dịch vụ.
3. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI:
3.1. Đặc điểm FDI:
Chủ đầu tư phải chấp hành nghiêm túc những quy định pháp luật mà nước sở tại đề ra đối với hoạt động đầu tư của mình.
Việc tiếp cận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp cận vốn.
FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn khỏi nước mình đầu tư
FDI không đơn thuần chỉ là vốn mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, thị trường mới… cho nước tiếp cận đầu tư.
FDI thường tập trung vào những lĩnh vực có tỉ suất lợi nhuận cao và mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận.
3.2 Ảnh hưởng tích cực của FDI:
FDI là nguồn hỗ trợ cho phát triển kinh tế: FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ trong các dự án đầu tư vào công nghiệp, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển. Đặc biệt là FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay, nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển: Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh ta kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng cao.
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng lên theo. Vì vậy có thể thông qua tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ta kinh tế. Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy ta kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
Chuyển giao công nghệ: Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị, .... (hay còn gọi là phần cứng) trí thức khoa hoạch bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.). FDI có thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. Đồng thời FDI còn tạo áp lực, thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn Quốc còn kém về lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật, và các nước khác mà năm 1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 thế giới. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công ghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được các công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển được “đi xe miễn phí” mà họ phải trả một khoản “học phí” không nhỏ trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế: Yêu cầu chuyển dịch nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
Một số tác đông khác: Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất .... Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu. Cùng với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề việc làm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. Ở một số nước đang phát triển số người làm việc trong các xí nghiệp chi nhánh nước ngoài so với tổng người có việc làm đạt tỷ lệ tương đối cao như Singapore là 54,6%, Brazin là 23%, Mehico là 21%. Mức trung bình ở nhiều nước khác là 10%.
3.3 Tác động tiêu cực của FDI:
Chuyển giao công nghệ: Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải thich bởi: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng của sản phẩm của chính nước họ. Hai là, vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sử dụng lao động, tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là giá thành sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những công nghệ có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là:
- Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
- Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
- Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo báo cáo của ngân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiết bị của các nước Mỹ La Tinh nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu. Cũng tương tự, các trường hợp chuyển giao công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm tra nên đã bị nhiều thiệt thòi.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính sách công nghệ, môi trường của các nước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà máy lắp ráp sản xuất của các công ty xuyên gia của Mỹ. Những nhà máy này được chuyển sang Mehico để tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ và lợi dụng những khe hở của luật môi trường ở Mehico.
Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty xuyên quốc gia này. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa quốc tế. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chóng phát triển công nghệ nội địa, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ tránh được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
Chi phí cho thu hết FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp:
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI. Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu, hoặc các chính sách của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp. Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng ….
Những mặt trái khác: Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile bị giật dây lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên quốc gia ITT(công ty viễn thông và điện tín quốc tế) và chính phủ Mỹ cam thiệp công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản bội Tổ Quốc. Các tệ nạn xã hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm, nghiện hút....
4. Các nhân tố tác động đến việc thu hút FDI:
Môi trường chính trị xã hội: Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định, đặc biệt là thể chế chính trị (đi liền với nó là sự thay đổi luật pháp) thì mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi. Hậu quả là lợi ích của các nhà ĐTNN bị giảm (họ phải gánh chịu một phần hay toàn bộ các thiệt hại đó) nên lòng tin của các nhà đầu tư bị giảm sút. Mặc khác, khi tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà ĐTNN, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu quả sử dụng vốn FDI rất thấp.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tình hình chính trị - xã hội bất ổn thì các nhà đầu tư sẽ ngừng đầu tư hoặc không đầu tư nữa. Chẳng hạn, sự lộn xộn ở Nga trong thời gian qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư mặc dù Nga là một thị trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng...Tuy nhiên, nếu chính phủ thực hiện chính sách cởi mở hơn nữa thì chỉ làm giảm khả năng thu hút các nhà ĐTNN, cá biệt có trường hợp trong chiến tranh vẫn thu hút được FDI song đó chỉ là trường hợp ngoại lệ đối với các công ty thuộc tổ hợp công nghiệp quân sự muốn tìm kiếm cơ hội buôn bán các phương tiện chiến tranh hoặc là sự đầu tư của chính phủ thông qua hình thức đa phương hoặc song phương nhằmthực hiện mục đích riêng. Rõ ràng, trong trường hợp này, việc sử dụng FDI không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nước tiếp nhận đầu tư.
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô: Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được FDI, nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử dụng tốt FDI.
Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua tiêu chí: chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công cụ của chính sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các công cụ thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách hoặc giữ cho ngân sách cân bằng.
Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả. Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là:
Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo đảm.
Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài.
Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất.... Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao.
Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động,có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định. Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng... sẽ tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông tin... sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.
Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại: Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ.... Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống thị trường này sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trìng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mai, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư.
Trình độ quản lý và năng lực của người lao động: Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng xuất cao. Bên cạnh đó, các nhà ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu quả của các dự án sẽ đạt đúng theo mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính cho nhà ĐTNN và cho nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quản lý kinh tế.
Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới: Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác, mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà đầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á trong thời gian qua dã làm giảm tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn hoặc không đầu tư nữa vì sợ rủi ro cao.
5, Vai trò FDI trong phát triển công nghiệp:
a. Vai trò của FDI trong việc phát triển công nghiệp thông qua tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư. Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt cầu, vì đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi chủ trương chi tiêu nên những thay đổi bất thường về đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sản lượng và thu nhập về mặt ngắn hạn. Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm xuống. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy để mở rộng, tăng thêm đầu tư cả theo chiều sâu và chiều rộng, qua đó tăng quy mô và hiệu quả của sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, đầu tư sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo mô hình của NUSKSE, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” của các nước đang phát triển. Bởi chính cái vòng luẩn quẩn đó đã làm hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật cũng như lực lượng sản xuất trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời qua đó cho chúng ta thấy chỉ có “mở cửa” ra bên ngoài mới tận dụng được tối đa lợi thế so sánh của nước mình để từ đó phát huy và tăng cường nội lực của mình. Khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nó sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy công nghiệp phát triển nói riêng và các ngành kinh tế khác cùng phát triển nói chung.
Thứ ba, đầu tư sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị, …. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đất nước.
Thứ tư, đầu tư sẽ làm tăng cường khả năng khoa học công nghệ của quốc gia. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc từ nước khác sang nước nhận đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà nhận được những kỹ thuật tiên tiến cùng với nó là kinh nghiệm quản lý, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động … ). Việc chuyển giao này có ảnh hưởng lớn trong công nghiệp hóa đặc biệt khi công nghiệp trong thời đại luôn đi cùng hiện đại hóa. Các công ty xuyên quốc gia có thể trực tiếp mang công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào các dự án đầu tư thuộc ngành công nghiệp hoặc có thể gây sức ép khiến các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi công nghệ.
b. Vai trò của FDI trong việc tăng cường sản xuất công nghiệp:
Đây là vai trò quan trọng thể hiện rõ tác dụng của FDI trong việc kích thích công nghiệp phát triển. Để làm rõ vai trò này ta xem xét dạng hàm sản xuất
Hàm Cobb-Douglas: Y = ALαKβ (1)
Trong đó:
Y = sản lượng
L = số lượng lao động
K = lượng vốn
A = năng suất toàn bộ nhân tố (hằng số)
α và β là các hệ số co dãn theo sản lượng lần lượt của lao động và vốn; chúng cố định và do công nghệ quyết định.
Lấy dạng hàm Cobb-Douglas là dạng hàm sản xuất cơ bản trong nền kinh tế. Nhìn vào công thức (1) ta nhận thấy, nếu muốn có sự tăng trưởng trong ngành sản xuất công nghiệp, ta phải thay đổi các yếu tố cụ thể là L, K, α và β. Trong đó các giá trị này càng tăng thì sản lượng đạt được càng lớn, ngành công nghiệp có quy mô ngày càng lớn. Và với FDI, ta có thể thấy được sự tăng các yếu tố đầu vào là rất lớn, cụ thể khi có dòng vốn FDI chảy vào công nghiệp biến K sẽ là biến tăng đầu tiên do các dòng vốn FDI thường là những dòng vốn lớn. Sau khi dòng vốn chảy vào dự án đầu tư, tiếp theo biến L sẽ tăng do các doanh nghiệp FDI khi thực hiện dự án đầu tư sẽ mang nhân lực của vào đồng thời các doanh nghiệp FDI sẽ sử dụng có hiệu quả nguồn nhân công giá rẻ tại nước nhận đầu tư. Sau đó nhờ công nghệ, kĩ thuật tiên tiến cùng kinh nghiệm quản lý các dự án FDI sẽ làm tăng hệ số α và β. Dẫn đến cuối cùng sản lượng Y sẽ tăng và làm tăng cường sản xuất công nghiệp.
c. Vai trò của FDI trong việc làm và nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung cũng như tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng. Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài là thu được lợi nhuận tối đa, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp nhận đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động đã tạo nhiều việc làm cho phụ nữ trẻ. Điều này không chỉ mang lại cho họ lợi ích về thu nhập cao mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các nước này.
FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty bạn hàng. Những cải thiện về nguồn nhân lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
d. Vai trò của FDI trong tổng thu ngân sách nhà nước:
Các dự án FDI sau khi hoàn thiện sẽ là nguồn bổ sung quan trọng trong ngân sách nhà nước đặc biệt là các dự án FDI hoạt động hiệu quả. Với một ngành mang tầm xương sống của đất nước như công nghiệp, nhà nước cần nắm giữ một tỉ lệ nhất định để đảm bảo sự phát triển ổn định. Vì vậy việc tăng nguồn thu ngân sách góp phần làm tăng các dự án đầu tư công liên quan đến công nghiệp vào các lĩnh vực mà doanh nghiệp không muốn làm nhưng có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy công nghiệp phát triển. Đặc biệt là việc các doanh nghiệp FDI đầu tư sẽ làm tăng ngoại tệ trong ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô cũng cải thiện cán cân thanh toán.
e, FDI thúc đẩy công nghiệp trong nước tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu:
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ doanh nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các doanh nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời việc tham gia mạng lưới góp phần gia tăng sản xuất công nghiệp đồng thời tăng hiệu quả chung của ngành công nghiệp khi yếu tố cạnh trạnh ngày càng gay gắt.
6, Các giải pháp thu hút FDI trong công nghiệp
Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn: Vấn đề mang tính quan trọng then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút FDI là tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư. Buộc các nhà đầu tư phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành các môi trường thành phần khác nhau:
Căn cứ phạm vi không gian: có môi trường đầu tư nội bộ doanh nghiệp, môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư quốc tế.
Căn cứ vào lĩnh vực: có môi trường chính trị, môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng….
Căn cứ vào tính hấp dẫn: có môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao, môi trường đầu tư có tính trung bình, môi trường đầu tư có tính cạnh tranh thấp và môi trường đầu tư không có tính cạnh tranh.
Đảm bảo các quyền cơ bản của nhà đầu tư: Về quyền cơ bản và các đảm bảo cho các nhà đầu tư gồm:
Đảm bảo không tước đoạt: Đảm bảo này thông thường được quy định ở những điều khoản đầu tiên của Luật đầu tư nước ngoài cũng như thông qua việc ký kết tham gia vào hiệp định đảm bảo đầu tư đa phương.
Đảm bảo cho những mất mát: Sự đảm bảo này diễn ra trong các trường hợp sau:
Quốc hữu hoá: Các nhà đầu tư sẽ quan tâm đến việc chính phủ một nước sẽ có thái độ như thế nào đối với vịêc quốc hữu hoá. Tại Việt Nam, Luật qui định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá; có nước lại qui định rằng trong những trường hợp đặc biệt sẽ quốc hữu hoá và có khoản đền bù xứng đáng.
Phá huỷ do chiến tranh: Thông thường những thiệt hại gây ra bởi chiến tranh từ bên ngoài không được đền bù nhưng những thiệt hại tạo ra từ các vấn đề của quốc gia đó như nổi loạn, khủng bố…thì sẽ được đền bù.
Tính không chuyển đổi được của tiền tệ: Đối với đồnh tiền không chuyển đổi được, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hướng dẫn cách cân bằng ngoại tệ cần thiết cũng như chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ.
Chuyển (gửi) ngoại hối: Đối với các nhà đầu tư nước ngoài khả năng tốt nhất vẫn là không có một qui định gì từ phía nước sở tại. Từ đó họ có thể chuyển các khoản tiền về nước một cách tự do. Những khoản sau đây trong mọi trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài phải được chuyển về nước nếu họ muốn: lợi nhuận, các khoản kiếm được khác, lợi tức đầu tư, vốn đầu tư, gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài , lương cho nhân viên nước ngoài, tiền bản quyền, phí kỹ thuật….
Chiến lược bảo hộ và các ưu tiên dành cho các nhà đầu tư và người nước ngoài: Bao gồm các vấn đề sau:
Việc tuyển dụng người nước ngoài: Việc tuyển dụng người nước ngoài là đảm bảo lợi ích cho các bên đầu tư. Một số quy định mà các nước thường sử dụng để qui định để qui định việc tuyển dụng người nước ngoài như:
Quy định tổng số lao động nước ngoài không được vượt quá một mức qui định nào đó.
Ban hành các thể cư trú cho lao động nước ngoài hay thẻ lao động nước ngoài cũng như những quy định về đối tượng bắt buộc phải có các thẻ đó mới được làm việc ở nước sở tại.
Quy định những nghành nghề cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài.
Quy định việc thết kế các chương trình đào tạo để thay thế lao động nước ngoài bằng các lao động trong nước.
Quyền sở hữu trí tuệ: Sự đảm bảo quyền sở hữu về sáng chế, nhãn hiệu thương mại cũng là một điều kiện kích thích các nhà đầu tư.
Sự ưu tiên với các nhà đầu tư chính phủ.
Các khoản vay hay nguồn trợ giúp từ phía chính phủ được coi là một trong những động lực khuyến khích đầu tư.
Đảm bảo cho một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Các nhà đầu tư mong muốn việc đảm bảo cho một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước với nước ngoài, giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau, giữa khu vực tư nhân và công cộng. Bao gồm:
Cạnh tranh nhập khẩu: Chính sách nhập khẩu của nước sở tại cần phù hợp và tạo điều kiện cho chính sách công nghiệp của nước đó phát triển. Các hàng hoá sản xuất trong nước thuộc những ngành đườc coi là non trẻ nên có một thời gian được bảo hộ để cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu.
Cạnh tranh Chính Phủ: Các chương trình của Chính phủ về hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước không được vi phạm tính cạnh tranh. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải phân biệt rõ ràng những ưu đãi dành cho từng khu vực. Khu vực công cộng không được phép xâm phạm khu vực tư nhân.
Cạnh tranh nội địa thông qua việc đánh thuế từ các hàng rào chắn thâm nhập vào ngành công nghiệp.Điều này liên quan đến việc tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước.
Sở hữu bất động sản của các nhà đầu tư nước ngoài: Đây cũng có thể coi là một trong những khuyến khích đầu tư , bởi vì nó làm cho các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng cào khả năng ổn định của khoản đầu tư cũng như những quyền khác. Nói chung, đối với các nhà đầu tư thì thuận lợi nhất vẫn là đuợc sở hữu bất động sản. Nếu việc sở hữu bất động sản không được luật pháp cho phép thì các nhà đầu tư đòi hỏi phải được sử dụng bất động sản trong một thời gian hợp lý.
Miễn giảm thuế:
Miễn thuế vốn: Chính phủ không thu thuế trên các khoản chuyển nhượng hay phần kiếm được từ cổ phiếu.
Miễn giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Sau khi kinh doanh có lãi, trong một thời gian các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi không phải nộp thuế. Sau một thời gian miễn thuế, các nước tiến hành giảm thuế.
Miễn giảm các loại thuế thu nhập khác.
Chính phủ cho phép các nhà đầu tư không phải nộp các khoản thuế địa phương như thuế doanh thu, lợi tức.Ngành được miễn giảm có thể là ngành định hướng xuất khẩu, hay ngành thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Miễn giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn).
Chính phủ không thu thuế nhập khẩu tư liệu sản xuất (bao gồm máy móc và các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên nhiên vật liệu) phục vụ các ngành khuyến khích như ngành hướng vào xuất khẩu, hay các ngành thực hiện chiến lược hoá công nghiệp đất nước, các dự án khuyến khích đầu tư.
Miễn thuế bản quyền. Việc miễn thuế bản quyền nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ vào nước sở tại. Tuy nhiên các Chính phủ cũng cân nhắc xem nên miễn thuế bản quyền trong suốt thời gian hợp đồng hay chỉ miễn thuế cho một số năm.
Miễn các loại thuế và chi phí khác: Các loại thuế và chi phí khác đựơc miễn bao gồm nhiều dạng như thuế thu nhập cá nhân đối với chuyên gia kỹ thuật nước ngoài làm việc trong các khu vực được ưu tiên; các khoản thuế doanh thu hay các mức thuế đặc biệt khi mới khởi sự kinh doanh…Việc ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần cũng là một khuyến khích đối với các nhà đầu tư bởi vì nó miễn trừ việc nộp thuế thu nhập cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.
Trong một số dự án khuyến khích đầu tư, các nhà đầu tư còn được hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất và các chi phí khác trong quá trình triển khai và vận hành dự án.
Những khoản trợ cấp của chính phủ:
Các chi phí tổ chức và tiền vận hành. Chính phủ nước sở tại có thể cho phép tính này vào chi phí của dự án trong một thời gian nhất định.
Tái đầu tư: Nếu dùng lợi nhuận để tái đầu tư thì sẽ được hưởng những ưu đãi nhất định.
Trợ cấp đầu tư: Là cho phép một tỷ nhất định của khoản vốn đầu tư không phải chịu những nghĩa vụ về đầu tư trong khoảng thời gian nhất định.
Các khoản khấu trừ khác: Các khoản khấu trừ này có thể tồn tại dưới có những quy định đặc biệt đối với một số ngành như cho phép được miễn trừ gấp 2 lần về giá trị cũng như về mặt thời gian ban hành những quy định ưu đãi chỉ riêng cho một dự án nào đó.
Tín dụng thuế đầu tư: Đây thực chất là biện pháp mà chính phủ sử dụng nhằm khuyến khích và cũng để giúp các nhà đầu tư tăng vốn đầu tư như trợ cấp đầu tư, trả lại những nghĩa vụ về thuế đã phải nộp cho nhà đầu tư nếu nhà đầu tư phải tái đầu tư
Các khoản tín dụng thuế khác: Để khuyến khích các nhà đầu tư, một khoản thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài mà đã chịu thuế ở nước ngoài có thể được đưa vào để xin miễn giảm ở trong nước có thể sử dụng như những khoản tín dụng đầu tư
Các khuyến khích đặc biệt:
Đối với các công ty đa quốc gia: Các công ty này là một nguồn cung cấp vốn đầu tư lớn trên thế giới nên việc có những khuyến khích đặc biệt với các công ty đa quốc gia là cần thiết .Tuy nhiên các chính phủ phải cân nhắc xem nên thực hiện những khuyến khích đặc biệt đó như thế nào để vẫn đảm bảo nguyên tắc “ sân chơi bình đẳng ”.
Một sồ trường hợp đã sử dụng các khuyến khích đặc biệt:
Coi những công ty đa quốc gia như những công ty được ghi tên ở thị trường chứng khoán và cho hưởng những ưu đãi tương tự.
Cho phép các công ty đa quốc gia được thành lập các công ty cổ phần.
Khuyến khích các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ và thực hiện mua sắm trong nội bộ hãng cũng như khuyến khích việc thiết lập các trụ sở chính bằng việc cho phép thành lập các trung tâm mua sắm của công ty đa quốc gia đó ở nước sở tại và đơn giản hoá các thủ tục hải quan, các đòi hỏi về quản lý ngoại hối, đăng ký làm thẻ cho nhân viên …. Việc thành lập các khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ tập trung cũng là một biện pháp khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động ở nước sở tại.
Đối với các cơ quan tài chính hải ngoại: Việc khuyến khích thành lập các công ty này cũng có nghĩa là khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sở tại .Do đó chính phủ nước sở tại có xu hướng miễn giảm các khoản thuế và nghĩa vụ tài chính cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các cơ quan tài chính hải ngoại .
Các luật tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài: Đây là những qui định riêng nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành công việc kinh doanh ở nước sở tại. Nhóm này bao gồm những khuyến khích phi tài chính như cho phép tuyển dụng nhân công nước ngoài không hạn chế ,đảm bảo việc chuyển nhược và hồi hương của vốn và lợi nhuận; ký kết các hiệp định; sự cho phép bán hàng tiêu dùng đến người tiêu dùng cuối cùng không phải thông qua các đại lý hay công ty thương mại, sở hữu đất đai.
II. Tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam trong công nghiệp:
Tổng quan về dòng vốn FDI vào Việt Nam 1988-2014:
Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hơn 25 năm qua (1988 – 2014) là một khoảng thời gian đủ dài để đánh giá một cách khách quan, có căn cứ thực tế hoạt động FDI ở Việt Nam. Từ năm 1988 –2014, hoạt động FDI trải qua các trạng thái khác nhau:
Từ năm 1988 đến 1990: là 3 năm đầu triển khai Luật, được coi là một thời kỳ thử nghiệm, mò mẫm nên kết quả đạt được không nhiều, FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Vào lúc này, ngoài việc có được Luật đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn và môi trường khá tự do trong đầu tư và kinh doanh, thì các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa có được kinh nghiệm cần thiết đối với hoạt động FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài coi Việt Nam như “một vùng đất mới” cần phải thận trọng trong hoạt động đầu tư. Cả ba năm cộng lại, cả nước thu hút được 211 dự án với số vốn đăng ký là 1602.2 triệu USD và vốn pháp định 1279.7 triệu USD, còn vốn thực hiện thì không đáng kể, bởi vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam. Bình quân 1 dự án có 7,4 triệu USD vốn đăng ký và 4,7 triệu USD vốn pháp định. Các lĩnh vực thu hút đầu tư chủ yếu là khách sạn, du lịch, khai thác thăm dò dầu khí, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, xây dựng.
Từ năm 1991 đến 1997: Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, ba năm đầu FDI chưa tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước ta. Nhưng từ năm 1991 đến năm 1997 đã diễn ra làn sóng FDI thứ nhất, với 2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn thực hiện 12,98 tỷ USD. Trong kế hoạch 5 năm 1991- 1995 thu hút được 17663 triệu USD vốn FDI đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao. Vốn đăng ký năm 1991 là 1291.5 triệu USD thì vốn đăng ký năm 1995 là 6937.2 triệu USD gấp 5,4 lần. Vốn thực hiện trong cả 5 năm (1991 – 1995) là 17663 triệu USD, chiếm khoảng 32% tổng đầu tư toàn xã hội. Đã có khoảng 20 vạn người làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Đây là thời kỳ hoạt động FDI rất sôi động, hàng nghìn đoàn khách quốc tế đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư, hàng trăm dự án mới chờ thẩm định, hàng chục nhà máy được khởi công cùng một lúc, bản đồ FDI thay đổi từng ngày ở Việt Nam.
Giai đoạn 1998 – 2000: là thời kỳ suy thoái của dòng vốn FDI vào Việt Nam. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Nếu như các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 20 vạn người trong 5 năm 1991 – 1995, thì trong 5 năm 1996 – 2000 chỉ có thêm 149 nghìn người có việc làm trong khu vực FDI. Tình hình giảm sút FDI vào Việt Nam từ sau 1997 có nguyên nhân khách quan gắn với cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy giảm kinh tế của thế giới, nhất là của Mỹ, EU và Nhật Bản đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trước hết là xuất nhập khẩu, làm giảm rõ rệt lợi thế so sánh của Việt Nam trong đầu tư và thương mại quốc tế.
Giai đoạn 2001- 2004: Thời kỳ hồi phục chậm của hoạt động FDI. Tính đến cuối năm 2004, tổng vốn đăng ký FDI ở Việt Nam là 4547.6 triệu USD và vốn thực hiện 2852.5 triệu USD. Con số này cho thấy, sau nhiều năm luồng vốn FDI vào Việt Nam bị chững lại, năm 2004 đã có dấu hiệu hồi phục rõ rệt. Những dấu hiệu lạc quan có thể minh chứng cho xu hướng phục hồi dòng vốn FDI vào Việt Nam, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á
Từ 2005 đến nay, Việt Nam đã thu hút được các dự án lớn, sử dụng công nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. Kể từ năm 2006 đến 2008, vốn FDI vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Năm 2006 vốn FDI đăng ký đạt 12 tỷ USD, năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD, năm 2008 con số này lên tới 71,7 tỷ USD, gấp hơn 3 lần so với năm 2007. Trong 2009 và 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, cũng như những vấn đề hậu khủng hoảng, vốn FDI đăng ký vẫn đạt khoảng 23,1 tỷ vào năm 2009 và 18,6 tỷ vào năm 2010.
Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỷ USD, năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với các năm trước. Trong năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỷ vào năm 2010, với tỷ trọng tương ứng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 25,6% và 25,8%. Đến năm 2011, có sự sụt giảm của dòng vốn FDI vào Việt Nam, tuy nhiên những năm sau đã có sự tăng trưởng trở lại. Điển hình là năm 2013, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,35 tỷ USD.
Khung chính sách thu hút FDI:
a. Khung chính sách thu hút vốn FDI trước đây:
Việt Nam đã thực hiện chính sách thu hút FDI ngay khi đất nước bắt đầu cải cách kinh tế. Các chính sách này được thể chế hóa thông qua việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987. Cho đến nay, Luật đã được sửa đổi nhiều lần vào những năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005 và 2014. Nhìn chung xu hướng thay đổi là tăng quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài, để làm cho môi trường đầu tư thêm thuận lợi, và thu hẹp khoảng cách giữa chính sách đầu tư nước ngoài và trong nước. Điều này phản ánh nỗ lực của chính phủ trong việc tạo ra môi trường đầu tư đồng nhất, phù hợp với quá trình hội nhập của Việt Nam.
Những thay đổi trong chính sách đối với khu vực FDI đến từ nhiều lý do khác nhau. Những thay đổi trong những năm gần đây bắt nguồn chủ yếu từ ba yếu tố, cụ thể là: (1) Những thay đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng Cộng Sản và chính phủ đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại; (2) Áp lực cạnh tranh từ các nước khác trong khu vực và trên thế giới đối với thu hút FDI; và (3) các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến đầu tư nước ngoài. Phần dưới đây sẽ thảo luận các yếu tố này và chỉ ra thách thức đối với Chính phủ Việt Nam trong cải thiện các chính sách FDI và các quy định trong những năm sắp tới.
Bảng 1: Những thay đổi chính trong chính sách FDI trong từng sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Lĩnh vực chính sách
Giai đoạn 1992-1995
Giai đoạn 1996-1999
Giai đoạn 2000-2004
Giai đoạn 2005-2013
Thủ tục đăng kí
Giấy phép FDI được cấp trong vòng 45 ngày.
Sau khi được cấp phép, các doanh nghiệp FDI vẫn phải đăng ký kinh doanh.
Các doanh nghiệp FDI được phép chọn hình thức đầu tư, tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư và đối tác Việt.
Doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu của hơn 80% được ưu tiên trong việc cấp giấy phép.
Công bố danh sách các doanh nghiệp FDI được phép đăng ký kinh doanh, thủ tục cấp giấy phép FDI.
Loại bỏ lệ phí đăng ký liên quan.
Thủ tục đăng kí đơn giản thuận tiện. Dự án được phân chia làm 2 loại là đăng kí đầu tư và thẩm định.
Phân cấp dự án đầu tư.
Phân cấp khu vực, lĩnh vực được cấp phép
Khuyến khích liên doanh với doanh nghiệp trong nước.
Hạn chế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 100 phần trăm
Khuyến khích doanh nghiệp FDI với các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu và công nghệ cao.
Công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2001-2005.
Mở rộng lĩnh vực đầu tư nước ngoài, cho phép FDI trong xây dựng nhà ở.
Đa dạng hóa các hình thức đầu tư; Cho phép người nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trong nước.
Có thể sử dụng các công trình gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn
Có các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI đầu tư phát triển thị trường công nghệ.
Ưu tiên cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào những khu vực khó khăn.
Đảm bảo quyền lợi và lợi ích khi chuyển giao công nghệ.
Thuê đất
Việt Nam có trách nhiệm bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư nước ngoài
Dự án FDI được thuê đất để hoạt động, nhưng không được phép để lại cho thuê đất
Ủy ban nhân dân địa phương có trách nhiệm giúp đỡ các doanh nghiệp nước ngoài để xóa các trang web khi dự án được phê duyệt; Các doanh nghiệp phải thanh toán cho giải phóng mặt bằng để Ủy ban nhân dân
Các doanh nghiệp FDI có thể thuê đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp khác
Có thể sử dụng các công trình gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn.
Giảm tiền thuê đất.
Miễn tiền thuê đất trong trường hợp đầu tư vào các địa bàn khó khăn.
Miễn tiền thuê với các dự án sử dụng đất để xây dựng chung cư cho công nhân trong các khu công nghiệp thuộc dự án đầu tư.
Các chính sách về tỷ giá, ngoại tệ
Chính phủ bảo đảm cân đối ngoại tệ cho các dự án FDI tại các cơ sở hạ tầng và thay thế nhập khẩu
Các doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực khác có trách nhiệm tự bố trí cân đối ngoại hối; Nhà nước không thể làm các dự án có trách nhiệm như vậy.
Tự bảo đảm cân đối ngoại tệ
Áp dụng các hạn chế chuyển tiền quốc tế (80%) do khủng hoảng khu vực, và sau đó dần dần giải phóng tỷ lệ này.
Các doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước
Có thể mua ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu giao dịch, phù hợp với pháp luật;
Không yêu cầu phê chuẩn về chuyển việc nhượng vốn; Giảm tỉ lệ vốn nước ngoài
Giảm tỷ lệ chuyển tiền quốc tế từ 80% đến 50%, 30% và 0%
Hỗ trợ cân đối ngoại tệ.
Xóa bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ.
Có thể trả lương cho người lao động bằng ngoại tệ.
Loại bỏ dần sự phân biệt về giá của các dịch vụ điện, nước, viễn thông...
Chính sách thuế
Thuế ưu đãi đối với FDI trong các lĩnh vực ưu tiên: thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong vòng 15 năm bắt đầu hoạt động;
Các quy định về thuế thu nhập đối với cả doanh nghiệp nước ngoài không cho phép khấu trừ lợi nhuận trong những năm sau để bù đắp cho những mất mát trong năm trước đó.
Các doanh nghiệp FDI phải loại trừ một số khoản chi phí từ chi phí sản xuất.
Thuế nhập khẩu được tính dựa trên giá nhập khẩu thấp áp dụng để tính thuế.
Tự bảo đảm cân đối ngoại tệ
Áp dụng các hạn chế chuyển tiền quốc tế (80%) do khủng hoảng khu vực, và sau đó dần dần giải phóng tỷ lệ này.
Các doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước
Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng, nguyên liệu, vv cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI.
Miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án trong các ngành công nghiệp ưu tiên, khu vực trong vòng 5 năm bắt đầu hoạt động;
Doanh nghiệp FDI có những xuất khẩu có thể được miễn thuế khi nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất;
Các công ty cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, hàng hóa trung gian với tỷ lệ tương ứng.
Loại bỏ các quy định về việc doanh nghiệp FDI có tỷ lệ phân bổ lợi nhuận nhất định của họ vào quỹ dự trữ;
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế; giảm dần khoảng cách về thuế giữa đầu tư trong nước và nước ngoài
Thuế suất thu nhập doanh nghiệp là 22%.
Miễn thuế nhập khẩu với hàng hóa là máy móc, vật tư, phương tiện vận tải… để thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam.
Chính sách ưu đãi liên quan đến chuyển lỗ trong kinh doanh và khấu hao tài sản.
Các chính sách về nhập khẩu, xuất khẩu
Doanh nghiệp nước ngoài phải đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu theo khai báo trong giấy phép đầu tư.
Các sản phẩm của các doanh nghiệp FDI không được bán ở Việt Nam thông qua các đại lý.
Các doanh nghiệp FDI không được làm đại lý cho nhập khẩu - xuất khẩu.
Hoàn toàn loại bỏ các quy định rằng kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp phải được chấp thuận của cơ quan.
Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu.
Giảm số lượng các khu vực có yêu cầu đối với tỷ lệ xuất khẩu 80%.
Các doanh nghiệp FDI có thể hành động như các đại lý nhập khẩu - dịch vụ xuất khẩu.
Giảm thuế nhập khẩu
Tiếp tục cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu.
b. Khung chính sách thu hút hiện tại:
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII, với 422 trên tổng số 424 (99,53%) đại biểu Quốc hội tán thành, Luật Đầu tư (sửa đổi) được thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Luật này bao gồm 7 chương, 76 điều, quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài; điều kiện và thủ tục đầu tư; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; chính sách ưu đãi và bảo đảm đầu tư; quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Sự đổi mới toàn diện, đột phá về thể chế, mở ra môi trường đầu tư thông thoáng của Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 được thể hiện qua những đổi mới cụ thể sau:
Một là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm. Theo đó, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư tất cả các ngành, nghề mà luật này không cấm hoặc quy định phải có điều kiện. Trên cơ sở đó, Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh gồm 06 ngành nghề quy định tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 3 và 3 của Luật; Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề được quy định tại Phụ lục 4 của Luật.
Hai là, củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể: Cập nhật các quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư và cam kết bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp; Hoàn thiện quy định về việc Nhà nước bảo đảm đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế; Hoàn thiện quy định về việc áp dụng nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.
Ba là, hoàn thiện các quy định về ngành, nghề ưu đãi đầu tư nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư. Luật sửa đổi đã hoàn thiện các quy định của Luật Đầu tư hiện hành về ngành, nghề ưu đãi đầu tư cũng như các nguyên tắc, điều kiện áp dụng ưu đãi nhằm đảm bảo thu hút đầu tư có chọn lọc, chất lượng, tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án sản xuất có quy mô lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động, dự án sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án thực hiện trong các lĩnh vực xã hội hóa đầu tư.
Bốn là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, bao gồm: Bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước; đơn giản hóa hồ so, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (từ 45 ngày theo Luật Đầu tư hiện hành xuống còn 15 ngày).
Năm là, hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Điểm mới trong nội dung này là chuẩn hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Sáu là, hoàn thiện các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, Luật khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư.
Với những điểm mới như đã phân tích, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 đã tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng, hy vọng sẽ thu hút ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư, góp phần tạo ra bước phát triển mạnh mẽ và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
c. So sánh khung chính sách thu hút FDI của Việt Nam và một số quốc gia khác:
Như đã trình bày trong Bảng 1, chính sách FDI của Việt Nam hiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài hơn so với trước đây. Bảng 2 dưới đây so sánh một số chính sách quan trọng liên quan đến ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài ở một số nước trong các nền kinh tế khu vực. Một số nhận xét có thể rút ra, như sau: Thứ nhất, về nguyên tắc, các ưu tiên của Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài là tương đối cạnh tranh so với một số nước (như trong Bảng 2) trong hình thức đầu tư, thủ tục cấp phép. Tuy nhiên, so với một số nền kinh tế chuyển đổi và các nước trong khu vực như Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Séc, Thái Lan, Philippines, Indonesia, ưu đãi như vậy là vẫn còn yếu.
Thứ hai, so với các nước khác trong khu vực cũng như các nền kinh tế chuyển đổi, nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định tại Việt Nam, đặc biệt là những người có liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án sau khi họ nhận được giấy phép (trừ khi họ được đặt tại khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế khó khăn). Trong nhiều trường hợp, điều này có thể mất nhiều thời gian để chuẩn bị và xây dựng cơ sở vật chất cần thiết, trì hoãn sự bắt đầu của dự án và các nhà đầu tư có thể bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh.
Thứ ba, sự kém phát triển của hệ thống tài chính, chính sách tiền tệ cũng như các quy định về quản lý ngoại hối hiện đang bất lợi cho các nhà đầu tư, và mang ít cạnh tranh hơn so với các nước trong các nền kinh tế khu vực.
Thứ tư, so với tình hình khi mới đổi mới các điều kiện liên quan đến môi trường đầu tư của Việt Nam đã trở nên thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật và các chính sách liên quan đến FDI vẫn còn thiếu nhất quán, minh bạch. Một cuộc khảo sát gần đây về các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chỉ ra rằng chính sách FDI hiện nay của Việt Nam vẫn gây ra những rào cản bất hợp lý và khó khăn cho các nhà đầu tư. Cụ thể, khu vực hạn chế hoạt động, mở rộng danh sách các doanh nghiệp có điều kiện bắt buộc, áp đặt tỷ lệ xuất khẩu đối với doanh nghiệp FDI, tăng giá đất và bồi thường giải phóng mặt bằng là nguồn để tăng sự bất ổn trong chính sách FDI của Việt Nam. Điều này cũng chứng tỏ khả năng cạnh tranh yếu kém so với các nước khác.
Bảng 2: So sánh chính sách FDI quan trọng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực và quá trình chuyển đổi
Tên quốc gia
Hạn chế về hình thức của các doanh nghiệp và khu vực
Quy định về cấp giấy phép
Tiếp cận đất đai
Tỷ giá ngoại tệ và ngoại hối
Việt Nam
Các doanh nghiệp được lựa chọn hình thức đầu tư, chấp nhận FDI đối với một số ngành công nghiệp quan trọng và nhạy cảm.
Các doanh nghiệp FDI có thể được chuyển đổi sang công ty cổ phần, và tự do lựa chọn đối tác đầu tư.
Đầu tư vào một số ngành công nghiệp chỉ cần đăng ký với chính quyền trong khi những người khác vẫn phải có được giấy phép đầu tư.
Cấp phép cho các dự án vừa và nhỏ được phân cấp cho chính quyền địa phương, và Ban quản lý các khu công nghiệp.
Sở hữu đất đai không được phép cho thuê đất trong khu công nghiệp, cơ sở kinh doanh; chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất được phép.
Kiểm soát tài khoản hiện hành; lệ phí áp đặt/thuế chuyển tiền ra nước ngoài; phải xin phép chuyển tiền ra nước ngoài.
Trung Quốc
Toàn bộ các doanh nghiệp nước ngoài phải xin giấy phép và chỉ có thể hoạt động trong các ngành công nghiệp theo định hướng xuất-nhập khẩu.
Một số ngành đòi hỏi tỷ lệ tối thiểu của đầu tư trong nước;
Các doanh nghiệp FDI có thể chuyển đổi hình thức đầu tư được tự do lựa chọn đối tác đầu tư.
Yêu cầu cấp giấy phép đầu tư; cấp phép cho các dự án vừa và nhỏ được phân cấp cho chính quyền địa phương.
Quyền sở hữu về đất đai và nhà ở được phép; một số khó khăn cho các nhà đầu tư về trang web, đất; chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất được phép.
Không hạn chế về chuyển ngoại tệ; Tài khoản của các doanh nghiệp FDI bị kiểm soát; phải xin phép trong chuyển tiền ra nước ngoài.
Philippines
Toàn bộ doanh nghiệp nước ngoài được phép hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp; hạn chế về vốn góp tối đa của FDI trong một số ngành công nghiệp; nhà đầu tư có thể tự do lựa chọn đối tác đầu tư.
Giấy phép được yêu cầu chỉ khi dự án muốn được hưởng chính sách ưu đãi (trong vòng 3 tuần); nếu không các thủ tục đầu tư tương tự như các nhà đầu tư trong nước (chỉ yêu cầu đăng ký).
Các doanh nghiệp với hơn 40% vốn nước ngoài không được phép trở về xứ mình; họ phải thuê từ đại lý bất động sản. Các doanh nghiệp khác có thể thuê đất trong 50 năm; và thế chấp quyền sử dụng đất được phép.
Quản lý ngoại hối linh hoạt; không hạn chế cho vay bằng ngoại tệ và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài; Không có yêu cầu về dự trữ ngoại hối bắt buộc trong tài khoản của doanh nghiệp.
Thailand
Không hạn chế của FDI và doanh nghiệp được phép lựa chọn hình thức đầu tư, ngoại trừ đối với một số ngành công nghiệp bị hạn chế.
Giấy phép chỉ cần thiết nếu muốn dự án để hưởng chính sách ưu đãi đầu tư. Các nhà đầu tư chỉ phải đăng ký với Bộ Thương mại và Cục thuế.
Các doanh nghiệp có thể thuê đất trong 50 năm, có thể tự động với phần mở rộng khi hết hạn; hợp đồng cho thuê đất có thể được sử dụng để thế chấp.
Ngoại hối linh hoạt, không có hạn chế về chuyển giao các khoản vay hoặc dự trữ ngoại tệ.
Hàn Quốc
Ban đầu rất nghiêm ngặt, nhưng hiện tại đã có sự thay đổi. Về cơ bản không hạn chế FDI trừ một số "công nghiệp nhạy cảm". Các nhà đầu tư có thể sở hữu lên đến 33% vốn của doanh nghiệp nhà nước; tự do lựa chọn đối tác đầu tư.
Thủ tục phức tạp; đã được cải thiện nhiều sau khi có cuộc khủng hoảng khu vực.
Các doanh nghiệp có thể thuê đất trong 50 năm; thế chấp đất đai được cho phép; Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước vẫn có tiếp cận tốt hơn với đất.
Ngoại hối linh hoạt, không có hạn chế về cho vay, chuyển nhượng, dự trữ ngoại tệ.
Indonesia
Cấm các doanh nghiệp hoàn toàn nước ngoài trong một số ngành công nghiệp nhạy cảm. Đối với phần còn lại, các nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn hình thức đầu tư.
Thủ tục phức tạp; tham nhũng phổ biến trong việc cấp phép đầu tư; chính của Tổng thống là cần thiết nếu các dự án vốn lớn hơn 100 triệu USD; một số giấy phép cần thiết, ngay cả sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
Cho thuê đất trong các khu công nghiệp được cho phép, nhưng không dễ dàng trong thực tế; cho thuê đất trong 30 năm là phổ biến nhất. Chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất được phép.
Không hạn chế nhiều trong chính sách ngoại hối.
Malaysia
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có thể thuê hoặc mua đất tại thủ đô.
Chỉ được phép trong lĩnh vực định hướng xuất-nhập khẩu.
Giấy phép là cần thiết cho tất cả các dự án FDI (cấp trong vòng 6-8 tuần, có thể dài hơn đối với một số dự án).
Các doanh nghiệp FDI có thể chọn để thuê hoặc mua đất trong 99 năm. Được phép thế chấp và chuyển nhượng đất.
Thuế đánh vào việc chuyển tiền ra nước ngoài sau khi cuộc khủng hoảng tài chính.
Hungary
Không hạn chế về hình thức đầu tư và các loại hình doanh nghiệp FDI.
Không yêu cầu giấy phép cần thiết, ngoại trừ một vài khu vực.
Doanh nghiệp FDI được phép mua đất và sở hữu đất.
Chế độ ngoại hối, chuyển đổi tiền tệ linh hoạt.
Phần Lan
Không hạn chế về hình thức đầu tư và các loại hình doanh nghiệp FDI.
Không yêu cầu giấy phép cần thiết, ngoại trừ một vài khu vực.
Doanh nghiệp FDI được quyền mua đất và sở hữu đất, tuy nhiên đòi hỏi sự cho phép.
Chế độ ngoại hối, chuyển đổi tiền tệ linh hoạt.
Cộng Hòa Séc
Không hạn chế về hình thức đầu tư và các loại hình doanh nghiệp FDI.
Không yêu cầu giấy phép cần thiết, ngoại trừ một vài khu vực.
Doanh nghiệp FDI được phép mua đất và sở hữu đất.
Chế độ ngoại hối, chuyển đổi tiền tệ linh hoạt.
Thực trạng thu hút vốn FDI vào công nghiệp của Việt Nam:
Tổng quan về dòng vốn FDI vào Việt Nam:
Về cơ cấu theo ngành: Xét về cơ cấu 3 khu vực, công nghiệp - xây dựng là khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất trong thu hút ĐTNN, tính đến hết năm 2013 đã thu hút được 135,83 tỷ USD, chiếm 59,02% tống vốn đăng ký, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm vai trò chủ đạo (90,34%).Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Nông nghiệp là ngành thu hút được ít nhất dự án FDI, kể cả số dự án, số vốn đăng ký và vốn thực hiện.
Đáng chú ý, nếu như trong những năm 90, FDI hướng vào những ngành công nghiệp khai thác và thay thế nhập khẩu thì kể từ năm 2000 đến nay, các dự án FDI vào ngành công nghiệp chế biến và định hướng xuất khẩu dã tăng nhanh, góp phần tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây. FDI đầu tư vào công nghiệp đã góp phần hình thành một số ngành mũi nhọn, thúc đẩy mở rộng sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ thu hút được 3,35 tỷ USD, chiếm tỷ trọng thấp với 1,46% trong tổng vốn đăng ký.Ngành dịch vụ thu hút được 90,96 tỷ USD, chiếm 39,52% tổng vốn FDI đăng ký, trong đó đứng đầu là kinh doanh bất động sản chiếm 53,77%; tiếp đến là các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống 11,86%; sản xuất phân phối điện, khí, nước 10,52%; thông tin và truyền thông 4,41%. Ngành tài chính, ngân hàng bảo hiểm vẫn chiếm tỷ trọng thấp (1,46%) trong tổng vốn FDI đầu tư vào các ngành dịch vụ.
Cơ cấu theo vùng: Tính đến nay, vốn ĐTNN đã có mặt tại tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, tuy nhiên có sự chênh lệch tương đối rõ nét về thu hút FDI giữa các vùng, cụ thể: Vùng Đông Nam Bộ là vùng thu hút nhiều FDI nhất, đạt 101,24 tỷ USD, chiếm 43,99%. Đứng thứ hai là vùng Đồng bằng sông Hồng, đạt 55,57 tỷ USD, chiếm 24,15%; Tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, đạt 50,63 tỷ USD, chiếm 22%; Ba vùng thu hút FDI tương đối thấp đó là đồng bằng sông Cửu Long; Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, chiếm lần lượt 4,93%; 3,38%; 0,35% tổng vốn đăng ký.
Về đối tác đầu tư: Các nền kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), chiếm trên 73% tổng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; hiện có trên 5.681 dự án đầu tư còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 41,7 tỷ USD. Trong số 16 nền kinh tế thành viên APEC có dự án đầu tư tại Việt Nam, dẫn đầu là Đài Loan với 1.542 dự án và tổng vốn đầu tư đạt 8,04 tỷ USD, chiếm 27% số dự án và 19,3% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Xinhgapo với 447 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 8,03 tỷ USD; Nhật Bản có 723 dự án, tổng vốn đầu tư 7,1 tỷ USD.
Về tổng vốn thực hiện: các nhà đầu tư Nhật Bản lại dẫn đầu, với trên 4,7 tỷ USD đã được giải ngân. Trong những nỗ lực đẩy mạnh hoạt động hợp tác song phương, Việt Nam và Nhật Bản đã thoả thuận thực hiện Sáng kiến chung Việt-Nhật về việc hợp tác nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Việc triển khai có hiệu quả Sáng kiến chung cũng như việc ký kết chính thức Hiệp định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa hai nước đã động lực lớn thúc đẩy hợp tác đầu tư Việt Nam-Nhật Bản.
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam khoảng 2 tỷ USD, tuy nhiên, nếu tính cả nguốn vốn đầu tư thông qua nước thứ ba thì tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam đạt khoảng 3 tỷ USD, đứng thứ 7 trong số 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
Dòng vốn FDI trong ngành công nghiệp - xây dựng:
Dòng vốn FDI từ năm 2008 đến năm 2013 trong ngành công nghiệp – xây dựng
Nhìn chung, tổng dòng vốn FDI chảy vào công nghiệp xây dựng qua các năm đều tăng, tuy nhiên trong từng lĩnh vực vẫn có sự biến động khác nhau thể hiện qua Bảng 3 dưới đây.
Đối với công nghiệp khai khoáng, đấy là lĩnh vực đã thu hút vốn FDI từ rất lâu, tuy nhiên lĩnh vực này không được ưu tiên phát triển và chủ yếu dòng vốn FDI vào với hình thức doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp nhà nước vì vậy số dự án của lĩnh vực khá thấp. Do không được các chính sách ưu tiên, lĩnh vực này có xu hướng giảm về số vốn đăng kí. Cụ thể là từ 6840,8 triệu USD vào năm 2008 xuống còn 85,9 triệu USD vào năm 2013 mạc dù số dự án không thay đổi nhiều.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến là lĩnh vực thu hút nhiều dự án và số vốn nhất trong vốn FDI vào công nghiệp – xây dựng. Lĩnh vực này có nhiều chính sách ưu đãi đồng thời là lĩnh vực quan trọng phát được các điểm mạnh của dòng vốn FDI. Số dự án luôn ở mức 300 đến 500, đỉnh điểm là năm 2013 số dự án lên đến 719 dự án. Tổng số vốn đầu tư trong lĩnh vực này xung chiểm một tỉ trọng lớn, số vốn đầu tư lớn nhất vào năm 2008, 28902.4 triệu USD, sụt giảm mạnh vào những năm sau đó do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 2009. Tuy nhiên, đến năm 2013, số vốn đầu tư đã tăng trở lại là 17141,2 triệu USD, đây là dấu hiệu tốt cho sự phục hồi.
Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí đây là lĩnh vực có sự biến động vì trước năm 2010, lĩnh vực này bao gồm cả lĩnh vực cung cấp nước và xử lí nước thải. Sau khi luật môi trường ra đời và có hiệu lực, điều này ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Năm 2008, lĩnh vực này chỉ có vẻn vẹn một dự án với số vốn đầu tư là 3,7 triệu USD, tuy nhiên con số này tăng mạnh vào năm 2009 với 32 dự án và số vốn là 183,9 triệu USD. Năm 2010 và 2011, số dự án giảm xuống lần lượt là 6 và 7 dự án nhưng mức vốn lại tăng lên tới trên 2500 triệu USD mỗi năm. Năm tiếp theo đó số dự án có tăng nhưng số vốn giảm đột ngột còn 97,2 triệu USD. Đến năm 2013 lại tăng trở lại về số vốn giống năm 2009 và 2010. Nhìn chung lĩnh vực này có độ biến động lớn.
Lĩnh vực xây dựng là một trong những lĩnh vực thu hút FDI từ lâu vì vậy lĩnh vực này có độ biến động thấp. Dựa vào bảng 3, có thể thấy lĩnh vực này thu hút nhiều dự án và vốn trong thời kì kinh tế khủng hoảng và trở lại mức trung bình khi nền kinh tế phục hồi và phát triển trở lại.
Lĩnh vực cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải là lĩnh vực mới xuất hiện, được tách ra từ lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí. Nhìn chung lĩnh vực này thu hút được ít vốn và biến động cùng chiều với lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí.
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép vào ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến năm 2013.
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Công nghiệp khai khoáng
Số dự án
7
6
-
5
7
4
Tổng số vốn đăng kí
6840.8
397.0
5.6
98.4
167.5
85.9
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Số dự án
455
388
478
464
549
719
Tổng số vốn đăng kí
28902.4
3942.8
5979.3
7788.8
11701.9
17141.2
Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí
Số dự án
1
32
6
7
15
4
Tổng số vốn đăng kí
3.7
183.9
2952.6
2528.5
97.2
2037.3
Xây dựng
Số dự án
142
124
174
149
96
118
Tổng số vốn đăng kí
492.1
652.0
1816.0
1296.4
346.0
222.3
Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải
Số dự án
-
-
6
3
2
3
Tổng số vốn đăng kí
-
-
10.1
323.2
0.5
51.1
Biểu đồ1 : Số dự án FDI trong các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến 2013.
Biểu đồ 2: Tổng số vốn đăng kí của các dự án FDI trong các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp – xây dựng từ năm 2008 đến 2013.
Biểu đồ 3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu vực kinh tế từ năm 2008 đến năm 2013.
Dòng vốn FDI năm 2014 trong ngành công nghiệp:
Chiếm 41,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp.
Báo cáo mới nhất của Cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong năm 2014, đã có 594 dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với tổng vốn đăng ký 32,3 tỷ USD, chiếm gần 54,7% tổng số dự án và 57,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Xét theo lĩnh vực đầu tư, công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 774 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 14,49 tỷ USD, chiếm 71,6% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 12 tháng năm 2014. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 35 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 2,54 tỷ USD, chiếm 12,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ 3 là lĩnh vực xây dựng với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,05 tỷ USD, chiếm 5,2% tổng vốn đăng ký.
Theo đối tác đầu tư, trong số 60 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm là 7,32 tỷ USD, chiếm 36,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hồng Kông đứng vị trí thứ hai, Singapore đứng vị trí thứ 3, tiếp theo là Nhật Bản...
Năm 2014, giá trị sản xuất công nghiệp của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 204.000 tỷ đồng, tăng gần 18%. Trong đó chỉ trừ dầu thô đạt giá trị sản xuất thấp hơn cùng kỳ năm ngoái 5,8%, còn các ngành khác đều tăng từ 20% trở lên.
Hoạt động sản xuất công nghiệp của khối doanh nghiệp FDI ở các địa phương cũng phát triển rất mạnh, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất của nhiều địa phương. Đơn cử như khu vực công nghiệp FDI ở Hải Dương đạt tăng trưởng tới 44,3%, Vĩnh Phúc 36%, Quảng Ninh gần 29%, Thành phố Hồ Chí Minh 19%, Hà Nội 16,8%.
Ngoài thúc đẩy sản xuất, các doanh nghiệp FDI còn đóng vai trò chủ đạo trong việc tăng kim ngạch và mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu 48,6 tỷ USD của 9 tháng đầu năm, khối doanh nghiệp FDI chiếm tới 26,6 tỷ USD (bao gồm cả dầu thô).
FDI trong lĩnh vực công nghiệp còn gián tiếp đào tạo cho Việt Nam đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, có khả năng thao tác, sử dụng những công nghệ và thiết bị tiên tiến của thế giới. Đến hết tháng 9, khối doanh nghiệp FDI đã thu hút trên 1,4 triệu lao động, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý theo hướng cởi mở và minh bạch nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và hấp dẫn hơn cho khối đầu tư nước ngoài, đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu lực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
Kiến nghị chính sách:
Một số kinh nghiệm thu hút vốn FDI:
Trung Quốc: kết hợp thu hút vốn và thu hút tri thức.
Trung Quốc là quốc gia được đánh giá có phương thức "lợi dụng vốn ngoại" một cách hiệu quả. Quá trình thu hút FDI của quốc gia này có diễn tiến từ "điểm" tới "tuyến", từ "tuyến" tới "diện", từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây, từng bước được mở rộng trong các lĩnh vực với tầng nấc khác nhau.
Doanh nghiệp FDI bình quân mỗi năm đóng góp khoảng 30% GDP của Trung Quốc; thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp FDI chiếm hơn 20% tổng thu loại thuế này; tạo khoảng 72.000 việc làm/năm; đóng vai trò quan trọng trong lôi kéo xuất khẩu, thúc đẩy ngoại thương.
Trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc thành lập 4 đặc khu kinh tế, mở cửa 14 thành phố ven biển, đẩy mạnh thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài với những ưu đãi về thuế, đất đai, lao động... Trong giai đoạn này, FDI vào Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào các ngành gia công, chế tạo, sử dụng nhiều lao động.
Trong giai đoạn 1992 - 2000, chủ trương xây dựng thể chế kinh tế thị trường được đẩy mạnh, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng nhanh. Năm 1993, Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia thu hút FDI nhiều nhất thế giới (chỉ sau Hoa Kỳ). Phương thức "lợi dụng vốn ngoại" của Trung Quốc trong giai đoạn này là cùng góp vốn với công ty nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp FDI nghiên cứu và thực nghiệm tại Trung Quốc. Từ năm 1995, FDI của Trung Quốc tập trung vào nhóm ngành công nghiệp, xây dựng (chiếm khoảng 70%), trong đó ngành chế tạo chiếm tỷ trọng lớn…
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào cuối năm 2001, chính sách thu hút FDI của Trung Quốc có sự điều chỉnh phù hợp với các quy định của WTO với việc từng bước mở cửa thu hút đầu tư FDI vào các ngành dịch vụ, bất động sản, tiền tệ….
Trong giai đoạn 2010 - 2020, Trung Quốc nêu rõ quan điểm thu hút FDI vào các ngành kỹ thuật cao, kinh nghiệm quản lý, nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc cũng tiến hành sửa đổi bổ sung "Danh mục hướng dẫn ngành nghề đầu tư nước ngoài", đồng thời cho phép chính quyền địa phương được phê chuẩn dự án đầu tư từ 100 triệu USD lên 300 triệu USD.
Singapore: nhiều chính sách hấp dẫn nhà đầu tư.
Trong khi nhiều nước ASEAN có thế mạnh về tài nguyên và con người… nhưng vẫn luẩn quẩn trong vòng thu nhập trung bình, thì Singapore lại có những bước phát triển thần kỳ, dù khi mới trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959, nước này có xuất phát điểm thấp, với nguồn tài nguyên gần như ở con số 0. Năm 2012, Theo Cục Thống kê Singapore, GDP bình quân đầu người của nước này đạt 65.048 Đô la Singapore. Có được điều này một phần quan trọng là nhờ vào nguồn vốn FDI quy mô lớn, liên tục chảy vào quốc đảo ngay cả trong những năm gần đây kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008, nhưng nguồn vốn FDI vào Singapore vẫn tăng lên (từ 24 tỷ USD năm 2009 lên 63,99 tỷ USD năm 2011). Mặc dù, năm 2012, nguồn vốn FDI tuy có sụt giảm so với năm 2011, song con số 56,7 tỷ USD vẫn khá cao và đứng đầu khối ASEAN. Điều gì đã giúp Singapore thực hiện hiệu quả chính sách thu hút FDI và khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn đây là điểm đến hấp dẫn để họ đầu tư, kinh doanh thu lợi nhuận? Nhìn lại những chính sách mà Singapore đã thực hiện để thu hút FDI, có thể rút ra một số bí quyết sau:
Thứ nhất, Singapore đã xác định rõ việc thu hút nguồn vốn FDI tập trung vào ba lĩnh vực cần ưu tiên là: ngành sản xuất mới, xây dựng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, tùy từng điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, Singapore chủ trương thu hút FDI vào các ngành thích hợp. Ban đầu, do cơ sở kinh tế ở điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương sử dụng FDI vào các ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu, như: dệt may, lắp ráp các thiết bị điện và phương tiện giao thông… Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn vốn đầu tư tập trung vào những ngành, như: sản xuất máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng, công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ…. Để khai thác ưu thế về vị trí địa lý, cũng như khắc phục sự thiếu hụt về tài nguyên thiên nhiên, phù hợp với trình độ phát triển cao của nền kinh tế, thu hút FDI còn hướng vào việc tạo ra một hệ thống các ngành dịch vụ thúc đẩy đầu tư quốc tế.
Thứ hai, Chính phủ Singapore đã tạo nên một môi trường kinh doanh ổn định, hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã công khai khẳng định, không quốc hữu hoá các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, Singapore cũng rất chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ cho hoạt động sản xuất. Thủ tục cấp giấy phép đơn giản, thuận tiện, có những dự án xin cấp giấy phép rồi đi vào sản xuất chỉ trong vòng vài tháng, có những dự án chỉ trong vòng 49 ngày đã có thể đi vào sản xuất. Hiện tượng này được gọi là “kỳ tích 49 ngày” ở Singapore. Đặc biệt, Singapore đã xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn thiện, nghiêm minh, công bằng và hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng được xét xử rất nghiêm, tất cả các doanh nghiệp không kể trong nước, ngoài nước đều được đối xử như nhau, mọi người đều làm việc, tuân thủ theo pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước trả lương rất cao cho viên chức. Hàng tháng họ phải trích lại một phần lương coi như là một khoản tiền tiết kiệm khi về hưu, nếu trong quá trình công tác mà phạm tội tham ô thì sẽ bị cắt khoản tích lũy này và cách chức. Họ không những mất số tiền do mình tích cóp nhiều năm, mà có thể phải chịu hình phạt tù. Nhiều người gọi đây là quỹ dưỡng liêm cho quan chức.
Thứ ba, Chính phủ Singapore đã ban hành những chính sách khuyến khích các nhà tư bản nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư. Singapore áp dụng chính sách ưu đãi rất đặc biệt, đó là: Khi kinh doanh có lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước; Nhà đầu tư có quyền cư trú nhập cảnh (đặc quyền về nhập cảnh và nhập quốc tịch); Nhà đầu tư nào có số vốn ký thác tại Singapore từ 250.000 Đô la Singapore trở lên và có dự án đầu tư thì gia đình họ được hưởng quyền công dân Singapore.
Thái Lan và Malaysia: đầu tư theo hướng chọn lọc.
FDI luôn được coi là một trong những nhân tố kích thích quan trọng đối với nền kinh tế Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã xây dựng một chính sách ưu đãi để cho dòng vốn này phát huy được lợi thế.
Ngay từ giai đoạn 1959 - 1971, Thái Lan đã thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế thay thế hàng nhập khẩu. Quốc gia này đã có chủ trương giảm dần đầu tư từ Chính phủ, khuyến khích đầu tư tư nhân. Theo đó, năm 1959, Thái Lan đã thành lập Bộ Đầu tư và đến năm 1960 đã ban hành Đạo luật Đầu tư.
Giai đoạn 1972 - 1996, Bộ Đầu tư Thái Lan đã ban hành chính sách thu hút các chuyên gia, lao động chất lượng cao từ bên ngoài với những ưu đãi về đất, việc làm để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu. Từ năm 2005, chính sách thu hút FDI của Thái Lan có sự biến chuyển theo hướng đầu tư chọn lọc với chính sách ưu tiên nhà đầu tư trong nước, hỗ trợ phát triển các loại hình dịch vụ phi sản xuất và các loại hình dịch vụ tài chính. Thống kê cho thấy, FDI vào Thái Lan đầu tư nhiều nhất là lĩnh vực công nghiệp, sau đó là thương mại, bất động sản, xây dựng…
Đối với Malaysia, những năm 50 - 60 của thế kỷ trước, Malaysia khuyến khích thu hút FDI đầu tư vào những ngành xuất khẩu bằng việc giảm thuế thu nhập tới 3 năm cho các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành được lựa chọn. Từ những năm 90 đến nay, Malaysia khuyến khích thu hút FDI vào những ngành sử dụng công nghệ cao, ít phát thải bằng việc phân loại rất rõ những ngành ưu đãi đầu tư.
b. Cam kết quốc tế của Việt Nam với nước ngoài:
Cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài, trong những năm gần đây Việt Nam đã ký kết, tham gia một số điều ước quốc tế song phương và đa phương về đầu tư nước ngoài. Đây có thể được coi là một trong những bước đi không thể tách rời trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế và trong tổng thể chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 45 nước và vùng lãnh thổ (Nguồn: Bộ ngoại giao). Theo đó, phạm vi điều chỉnh của các hiệp định này đều mở rộng hơn so với những qui định hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chẳng hạn, các hiệp định này có những điều khoản qui định đối với nhiều loại hình đầu tư: trực tiếp, gián tiếp, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, quyền sở hữu trí tuệ, và các quyền khác theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam mới chỉ cam kết về đối xử theo quy chế tối huệ quốc (MFN), đồng thời cam kết thực hiện các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp với những tiêu chuẩn và tập quán thông dụng.
Từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã ký kết, tham gia một số điều ước và diễn đàn quốc tế như: i) Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA); ii) Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) với việc đưa ra kế hoạch hành động nhằm tự do hoá và mở của đầu tư trong khu vực; iii) Diễn đàn hợp tác Á - Âu, trong đó có việc triển khai thực hiện chương trình hành động về xúc tiến đầu tư (IPAP).Đặc biệt với việc tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đang hết sức cố gắng thực hiện các cam kết của hiệp định TRIMS.
Trong số các hiệp định mà Việt Nam ký kết có thể nói quan trọng nhất là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng 12/2001 mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI tiếp cận thị trường Hoa Kỳ và tạo điều kiện để thu hút FDI từ Hoa Kỳ vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Không những thế những cam kết cơ sở trong hiệp định này cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về FDI ở Việt Nam.
Kiến nghị chính sách:
Tiếp tục cải cách các hệ tư tưởng và cách tiếp cận trong việc chuẩn bị chiến lược để thu hút dòng vốn FDI trong những năm tới.
Với việc gia nhập vào tổ chức WTO, các chính sách FDI nên đưa vào bối cảnh toàn cầu hóa. Chính phủ cũng cần phải được xây dựng dựa trên các mục tiêu trung và dài hạn rõ ràng về thu hút FDI, để các giải pháp có thể được kết hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Tuy nhiên, trong dài hạn, Việt Nam cần nâng cao năng lực của mình, chẳng hạn như môi trường kinh doanh, kỹ năng lao động, nghiên cứu và phát triển,… để thu hút các nhà đầu tư lớn. Mục tiêu này đòi hỏi phải có hành động cụ thể
Các chính sách đầu tư nước ngoài trong những năm tới vẫn nên tập trung vào số lượng vốn, với sự nhấn mạnh nhiều hơn vào hiệu ứng lan tỏa tích cực của FDI. Các biện pháp cần thiết cũng được yêu cầu để thúc đẩy hơn nữa đầu tư tại các thị trường trong và ngoài nước, để tạo điều kiện trao đổi thông tin giữa các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, cũng như giữa các nhà đầu tư và các cơ quan liên quan của chính phủ.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam để các nhà đầu tư nước ngoài để cạnh tranh cho dòng vốn FDI.
Cuộc cạnh tranh cho FDI đang trở thành khó khăn hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong khi đó, môi trường đầu tư của Việt Nam hiện nay là kém cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực. Do đó, cần cải thiện môi trường đầu tư. Vì mục tiêu chính của các nhà đầu tư nước ngoài là khai thác lợi nhuận, giảm chi phí kinh doanh và đầu tư, vì vậy làm cho môi trường thuận lợi hơn sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI hơn nữa. Đối với các nước chủ nhà, việc chuyển giao công nghệ và đầu tư dài hạn từ các nhà đầu tư nước ngoài cũng là những mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư. Trên cơ sở đó, các chính sách cần tập trung vào ba vấn đề:
Một là tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Việc phân biệt đối xử với các doanh nghiệp nên được loại bỏ một cách nhanh chóng để giảm thiểu những rủi ro do sửa đổi chính sách, bất ổn kinh tế vĩ mô, thực thi hợp đồng,… Ngoài ra, cần đơn giản hóa các thủ tục gia nhập thị trường, tạo điều kiện xuất cảnh và tối thiểu chi phí là cần thiết để giảm thiểu các rào cản đối với cạnh tranh. Các chính sách cạnh tranh, cần nhanh chóng thực thi, để thay thế các chính sách bảo vệ quá mức hiện tại.
Hai là nhanh chóng cải thiện thị trường các yếu tố của sản xuất, đặc biệt là các thị trường vốn, lao động, và bất động sản. Điều này sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài khả năng tiếp cận dễ dàng hơn để sử dụng các yếu tố sản xuất liên quan đến giá cả, không gian và thời gian. Nếu không, sự yếu kém của các thị trường ở Việt Nam trở thành một điểm yếu nghiêm trọng vì nó làm tăng chi phí sản xuất và cản trở khả năng để nắm bắt các cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ba là đẩy mạnh cải cách hành chính, cùng với việc phân cấp quản lý nhà nước nói chung và quản lý đầu tư đặc biệt là cấp chính quyền địa phương. Ngoài ra, trách nhiệm của mỗi cá nhân nên được xác định rõ ràng và được đánh giá trên cơ sở lợi ích cho toàn xã hội. Thực hiên phân cấp, cho người đứng đầu của mỗi cấp chủ động thực hiện các quyết định thuộc thẩm quyền của mình, cũng như để đánh giá các hậu quả thực tế của những quyết định như vậy, liên quan đến việc tạo ra công ăn việc làm, gia tăng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng cho khu vực địa phương,… , sau khi dự án bắt đầu. Yêu cầu chính sách riêng của từng địa phương để nâng cao năng lực của từng nhân viên trong bộ máy hành chính.
Tạo điều kiện tốt cho hiệu ứng lan tỏa tích cực của FDI và tăng khả năng hấp thụ của các doanh nghiệp trong nước.
Thay vì khuyến khích FDI vào một số ngành nhất định, cần nên khuyến khích FDI vào nhiều ngành khác, có tác động tới nền kinh tể. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiếp tục cần được đẩy mạnh. Ngoài ra, các cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan phải được thực hiện để hội nhập có hiệu quả và tự do hóa thương mại. Điều này sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp và giảm thiểu mức độ phân biệt trong một số ngành công nghiệp được ưu đãi. Mục đích của các biện pháp này là để làm giảm nồng độ của FDI trong một số ngành công nghiệp và thay thế nhập khẩu, thu hút FDI vào các ngành công nghiệp, do đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước cũng như nền kinh tế.
Phân cấp cấp giấy phép đầu tư và tăng quy mô dự án mà mỗi cấp chính quyền tương ứng, đặc biệt là ở các khu vực ngoài các trung tâm công nghiệp lớn hoặc bên ngoài các thành phố lớn. Biện pháp này có thể có tác động trực tiếp vào quy mô của dự án và tăng trưởng vốn thực hiện, đồng thời kích thích quá trình cải cách hành chính, đặc biệt là ở các tỉnh / thành phố. Như đã đề cập ở trên, việc phân cấp này phải được gắn liền với trách nhiệm cá nhân và đánh giá thông qua hiệu quả kinh tế - xã hội thực tế của dự án.
Giảm nồng độ của FDI tại các trung tâm công nghiệp lớn và các khu vực đô thị lớn bằng cách khuyến khích dòng vốn FDI vào các khu vực khác. Cùng với việc phân cấp, chính phủ nên hỗ trợ các tỉnh trong việc thúc đẩy đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cho công nhân lành nghề và lao động quản lý. Trong những năm tới, ưu thế sẽ thuộc về các tỉnh lân cận các trung tâm thu hút FDI.
Phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thiết lập các mối liên kết sản xuất trong nội bộ ngành công nghiệp với các đối tác FDI khác trong cùng ngành. Hỗ trợ của Chính phủ là cần thiết trong việc nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nhỏ, để họ có thể được hưởng lợi từ sự chuyển giao của công nghệ mới. Tổ chức các cuộc họp để thảo luận trực tiếp giữa các doanh nghiệp; tổ chức các lớp tập huấn cho các nhân viên trong các công ty.
Tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp trong nước, để nâng cao khả năng hấp thụ của công nghệ mới và thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Điều này có thể được thực hiện thông qua các chương trình chính phủ tài trợ để trao đổi chuyên môn giữa các viện nghiên cứu, trường đại học,… và các doanh nghiệp, hoặc thông qua các nghiên cứu về các sản phẩm mới, các ngành công nghiệp mới, nơi những người tham gia chia sẻ tài trợ và lợi ích.
Nhanh chóng nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo trong nền kinh tế, đặc biệt là trong các doanh nghiệp trong nước, để nâng cao khả năng tiêp thu các tiến bộ khoa học và công nghệ mới.
Thực hiện các biện pháp hiệu quả để thu hút các tập đoàn đa quốc gia lớn với khả năng công nghệ, thu hút hoạt động nghiên cứu và phát triển của các công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Nhanh chóng cải cách các tổ chức nghiên cứu và phát triển của chính phủ, đặc biệt là đối với nguồn nhân lực, bảo đảm khả năng tiếp thu kiến thức mới và công nghệ tiên tiến.
Liên tục cập nhật, phân tích và xử lý thông tin liên quan đến các công ty lớn, đặc biệt là những công ty có khả năng phát triển về năng suất. Nhiệm vụ này nên được trao cho một cơ quan nào đó để theo dõi và phân tích hệ thống, mặc dù các tổ chức khác có liên quan / doanh nghiệp cũng được khuyến khích. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của các nước khác trong việc thu hút các công ty nước ngoài với công nghệ cần thiết để tận dụng được phân tích để rút ra những bài học có liên quan.
Để thu hút các doanh nghiệp lớn và thúc đẩy chuyển giao công nghệ, ngoài một môi trường đầu tư đáng tin cậy, chính phủ cũng nên có chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, Những ưu đãi như vậy nên được trao cho một số ngành công nghiệp có đủ điều kiện, chứ không phải là một số lượng lớn các ngành công nghiệp. Chính phủ cần bảo đảm thực hiện có hiệu quả của các chính sách ưu đãi, giảm thiểu chi phí giao dịch liên quan. Biện pháp có thể bao gồm những ưu đãi về thuế, cơ sở hạ tầng (như đất đai và dịch vụ cung cấp các cơ sở hạ tầng), lao động (như thuế thu nhập cá nhân).
Cẩn thận kiểm tra và đánh giá các chính sách liên quan đến chuyển giao công nghệ trong những năm qua, rút ra một số bài học về thành công và thất bại. Mặc dù đã có một số chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ, Việt Nam chỉ đạt được một số kết quả hạn chế. Điều này ngụ ý rằng những chính sách không phù hợp với tình hình hiện tại. Do đó, các cuộc điều tra nghiên cứu hơn cần phải được tiến hành để phân tích sâu hơn và cụ thể hơn về những chính sách trong thực tế. Trong ngắn hạn, để tối đa hóa lợi ích của FDI, một cách tiếp cận hài hòa là thiết lập các chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngoài việc tập trung vào thu hút FDI, chính sách trong những năm tới cũng nên chú trọng hơn với các hiệu ứng lan tỏa tích cực của FDI.
Kết luận
Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được hiệu suất khá ấn tượng trong việc thu hút dòng vốn FDI. Cùng với sự tăng trưởng GDP liên tục gia tăng, khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP. Điều đó càng cho thấy rõ mức độ quan trọng của việc thu hút nguồn vốn FDI. Qua việc phân tích đánh giá các ảnh hưởng cũng như vai trò của FDI cho ta thêm kiên thức để năm rõ về nguồn vốn này. Đặc biệt việc tìm hiểu tình hình thu hút vốn ở Việt Nam cũng đặt ra các yêu cầu và thách thức đối với việc làm chủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. FDi hiện tại là xu hướng đầu tư hiệu quả phổ biến trên quốc tế. Đối với Việt Nam, muốn tiếp tục phát triển đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng như thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng cần ưu tiên nắm vứng dòng vốn quan trọng này đặc biệt là dòng vốn FDI trong ngành công nghiệp.
Tư liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư – Nxb ĐH KTQD.
Niên giám thống kê các năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013.
Các trang Web:
Wikipedia.com
vics.vn
voer.edu.vn
…
Một số tài liệu và giáo trình khác.