Bước tới nội dung

Apolemichthys trimaculatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Apolemichthys trimaculatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Apolemichthys
Loài (species)A. trimaculatus
Danh pháp hai phần
Apolemichthys trimaculatus
(Cuvier, 1831)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Holacanthus trimaculatus Cuvier, 1831

Apolemichthys trimaculatus là một loài cá biển thuộc chi Apolemichthys trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh trimaculatus được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: tri ("ba") và maculatus ("có đốm"), hàm ý đề cập đến đốm đen trên trán và một đốm màu sẫm ở mỗi bên nắp mang của cá thể trưởng thành[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. trimaculatus có phạm vi phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Loài này được ghi nhận dọc theo bờ biển Đông Phi trải dài đến Nam Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc trong Ấn Độ Dương, cũng như bờ biển phía nam Ấn ĐộTây Úc; từ quần đảo Mergui trải rộng khắp các vùng biển Đông Nam Á và nhiều quần đảo, đảo quốc thuộc châu Đại Dương (xa nhất là đến quần đảo Samoa); ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ogasawaraquần đảo Ryukyu); về phía nam giới hạn đến vùng biển phía đông bắc ÚcNouvelle-Calédonie[1].

A. trimaculatus sống gần các rạn san hô và mỏm đá ngầmmặt trước rạn và trong đầm phá ở độ sâu khoảng từ 10 đến 80 m[1][3].

A. trimaculatus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 26 cm[3]. Cơ thể cá trưởng thành có hình bầu dục, màu vàng tươi khắp đầu, thân và các vây, ngoại trừ vây hậu môn có một dải đen ở rìa và một dải trắng nằm bên trên. Một đốm đen ở trên trán và một đốm tròn màu vàng sẫm ở trên nắp mang. Môi có màu xanh lam nổi bật[4][5]. Cá con có màu vàng trên toàn bộ cơ thể (cả vây hậu môn), có thêm một dải đen băng qua mắt và một đốm đen lớn ở thân sau.

Số gai ở vây lưng: 14; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–19; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5[4].

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]
Cá con

Thức ăn của A. trimaculatushải miên và những loài thuộc phân ngành Sống đuôi. A. trimaculatus thường sống đơn độc hoặc bơi theo cặp, đôi khi hợp thành những nhóm nhỏ[1].

A. trimaculatus được ghi nhận là đã tạo ra những cá thể lai với những loài Apolemichthys có cùng phạm vi phân bố với chúng[6]:

A. trimaculatus được đánh bắt khá phổ biến trong ngành thương mại cá cảnh[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e R. Pyle; R. Myers; L. A. Rocha; M. T. Craig (2010). Apolemichthys trimaculatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165835A6144569. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165835A6144569.en. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Apolemichthys trimaculatus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 237. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ Apolemichthys trimaculatus Pomacanthidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.
  6. ^ Yi-Kai Tea và cộng sự (2020). “Angels in disguise: sympatric hybridization in the marine angelfishes is widespread and occurs between deeply divergent lineages” (PDF). Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences. 287 (1932): 1–8. doi:10.1098/rspb.2020.1459.
  7. ^ Phillip C. Heemstra; Elaine Heemstra (2004). Coastal Fishes of Southern Africa. Nhà xuất bản NISC (PTY) LTD. tr. 278. ISBN 978-1920033019.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)