Cá hải tượng long
Hải tượng long | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Osteoglossiformes |
Họ (familia) | Osteoglossidae |
Phân họ (subfamilia) | Heterotidinae |
Chi (genus) | Arapaima J. P. Müller, 1843 |
Loài (species) | A. gigas |
Danh pháp hai phần | |
Arapaima gigas (Schinz, 1822) |
Cá hải tượng long (Danh pháp hai phần: Arapaima gigas) là một loài cá nước ngọt sống ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Đây là một trong những loài cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Năm 1829, nhà sinh vật học người Thụy Sĩ là Louis Agassiz tiến hành một chuyến khảo sát và ông đã tìm thấy loài ở vùng rừng nhiệt đới Amazon của Brazil và đặt tên A. agassizii vào năm 1847.[2] Loài cá này được đề xuất tên khác bao gồm A. Arapaima được tìm thấy ở Guyana và A. mapae từ vùng đông bắc Brazil.[2]. Và hiện nay chỉ có một loài duy nhất được công nhận là A. gigas
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Cá hải tượng long có thể đạt đến độ dài hơn 2 m (6,6 ft), thậm chí còn có những con dài hơn 2,5 m (8,2 ft) với trọng lượng lên tới 100 kg (220 lb). Trọng lượng tối đa được phát hiện là khoảng 200 kg. Đây là một trong những loài cá mong muốn được tìm thấy nhất Nam Mỹ với việc sử dụng chúng là thực phẩm, người ta thường bắt chủ yếu bằng vợt khi đánh bắt để xuất khẩu, và dùng đinh ba, lao nếu dùng tiêu thụ nội địa. Chính vì vậy, hiện nay trong tự nhiên để tìm thấy được những con có chiều dài trên 2 m là cực kỳ hiếm.
Ngoài kích thước to lớn của nó, có lẽ là đặc điểm đặc biệt nhất của loài cá này là một sự phụ thuộc lớn vào không khí để thở. Ngoài mang, nó còn có một bong bóng bao gồm các mô phổi cho phép nó để giải nén oxy từ không khí. Đây là một sự thích nghi với các điều kiện thường thiếu oxy ở vùng ngập nước Amazon, nhưng đòi hỏi chúng phải hít thở không khí mỗi 5 đến 15 phút một lần.[3]
Lịch sử tiến hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Hóa thạch của Cá hải tượng long hoặc một loài rất tương tự như đã được tìm thấy trong Miocen Sự hình thành Villavieja của Colombia.[4]
Bảo tồn
[sửa | sửa mã nguồn]Tình trạng số lượng Cá hải tượng long trong lưu vực sông Amazon là không rõ, do đó nó được liệt kê trên sách đỏ IUCN là thiếu dữ liệu. Rất khó khăn để tiến hành một điều tra số lượng trong một khu vực quá lớn, và nó cũng có vấn đề giám sát sản lượng đánh bắt thương mại mà phần lớn là bất hợp pháp.
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]-
Arapaima ở Shedd Aquarium
-
Arapaima ở Công viên đại dương Manila
-
Arapaima tại Vườn bách thú Cologne
-
Arapaima leptosoma ở sở thú Sevastopol
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ World Conservation Monitoring Centre (1996). Arapaima gigas. 2008 Sách đỏ IUCN. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế 2008. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2009. Database entry includes a little information for why this species is data-deficient.
- ^ a b “Long-Lost Giant Fish from Amazon Rediscovered”. Science Daily. ngày 22 tháng 4 năm 2013.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
- ^ Lundberg, J.G. and B. Chernoff (1992). “A Miocene fossil of the Amazonian fish Arapaima (Teleostei, Arapaimidae) from the Magdalena River region of Colombia--Biogeographic and evolutionary implications”. Biotropica. 24 (1): 2–14. doi:10.2307/2388468. JSTOR 2388468.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Günter & Muriele Fritsche about the Arapaima gigas - Greenfield Valley Sport Fishing Specimen Lake 2 Hua Hin Thailand (September 2012) Lưu trữ 2013-09-16 tại Wayback Machine
- Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Arapaima gigas trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2009.
- Gourmet Magazine (May 2007 Volume LXVII No. 5) Article: "The Quarter Ton Fish" pg. 106; Condé Nast Publications
- National Geographic News "Search Is on for World's Biggest Freshwater Fish"