Bước tới nội dung

Hirate Yurina

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hirate Yurina
Tên bản ngữ平手 友梨奈
Sinh25 tháng 6, 2001 (23 tuổi)
Nguyên quánAichi, Nhật Bản
Thể loạiPhim điện ảnh, Phim truyền hình
Nghề nghiệpDiễn viên, Người mẫu, Ca sĩ, Vũ công
Năm hoạt động2015 – hiện tại
Công ty quản lýSeed & Flower LLC
Websitehttps://hirateyurina.jp/

Hirate Yurina (平手 友梨奈?) (Hán Việt - Bình Thủ Hữu Lê Nại) là diễn viên, người mẫu, ca sĩ, vũ công Nhật Bản và là cựu thành viên của nhóm nhạc thần tượng Keyakizaka46.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Cô vượt qua vòng cuối buổi thử giọng của Keyakizaka46 [1] vào ngày 21 tháng 8 năm 2015 [2]

Bài hát thử giọng là Hoshizora no Distance của The Alfee [3]

Cô thường được chọn làm vị trí trung tâm trong các bài vũ đạo của nhóm nhạc thần tượng Keyakizaka46.[4][5] Lần đầu tiên cô được chọn làm vị trí trung tâm là trong đĩa đơn ra mắt của nhóm Silent Majority, ra mắt vào tháng 6 năm 2016 bởi Sony Records, khi cô chỉ vừa 14 tuổi và là thành viên nhỏ tuổi nhất nhóm.[6][7]

Tháng 6 năm 2016, cô lần đầu được thử sức trong vai trò diễn viên của bộ phim truyền hình của nhóm nhạc Keyakizaka46 với tựa đề Who Killed Daigoro Tokuyama? (徳山大五郎を誰が殺したか??).[8] Ngay lúc này đây, cô bé đã cho thấy rất rõ khả năng diễn xuất của mình khi vào vai một cô học sinh thông thái và luôn muốn tìm cho ra sự thật.

Trong đĩa đơn thứ hai của nhóm Keyakizaka46 "Sekai ni wa Ai Shika Nai" (ra mắt vào tháng 8 năm 2016) có bao gồm một ca khúc hát đơn của Hirate.[9]

Vào ngày 8 tháng 10 năm 2016, tại buổi diễn thời trang thường niên GirlsAward 2016 Autumn/Winter, cô có màn ra mắt trên sàn diễn thời trang.[10][11]

Vào tháng 1 năm 2017, cô và Watanabe Rika (cũng là một thành viên của Keyakizaka46) lần đầu tiên xuất hiện trong vai trò người mẫu trên tạp chí thời trang phụ nữ Larme (LARME?).[12]

Trên tạp chí truyện tranh Weekly Shonen Jump số báo 2017/14 (xuất bản ngày 2 tháng 3) đánh dấu sự xuất hiện cá nhân của cô trên bìa tạp chí.[13] Trên số tạp chí 2017/16, cô tiếp tục có mặt cá nhân trên bìa tạp chí.[14]

Tháng 3 năm 2017, cô tốt nghiệp trường cao trung.[14]

Từ ngày 17 tháng 4 năm 2017, cô trở thành host trên chương trình radio cho tuổi trẻ với tựa đề "School of Lock!" trên sóng phát thanh Tokyo FM.[15][16][17]

Cô trở thành center của 3rd Single "Futari Sezon" và 4th Single "Fukyouwaon" của Keyakizaka46.

Hirate lại một lần nữa trở lại với vai trò diễn viên trong phim truyền hình mới của đài truyền hình Nippon TV với tựa đề Zankoku na Kankyakutachi (残酷な観客達?), được phát sóng từ ngày 18 tháng 5 năm 2017. Đây là bộ phim với sự góp mặt của các thành viên Keyakizaka46.

Vào tháng 12 năm 2017, cô gục ngã trong buổi biểu diễn "Kouhaku Uta Gassen" được tổ chức lần thứ 68 do Hội chứng tăng thông khí.[18]

Tháng 1 năm 2018, cô được chuẩn đoán bị chấn thương cơ tam đầu ở cánh tay phải trong một tháng [19]

Vào ngày 7 tháng 2 cùng năm, cô lần đầu xuất hiện sau khi công bố bị chấn thương tại sự kiện quảng cáo mỹ phẩm "24h cosme".[20]

Ngày 5 tháng 9 năm 2018, trong buổi biểu diễn cuối [21] của "Keyakizaka46 Summer Arena Tour 2018", cô bị ngã khỏi sân khấu. Được chuẩn đoán bị bầm tím và trở lại sân khấu lúc Encore lần thứ 2.[22]

Tháng 1 năm 2019, cô nhận giải thưởng "Diễn viên mới của năm" của Giải Viện Hàn Lâm Nhật Bản lần thứ 42 [23] Tháng 5 cùng năm, cô nhận giải thưởng " Diễn viên mới triển vọng" của Giải phê bình điện ảnh Nhật Bản lần thứ 28.

Vào ngày 23 tháng 1 năm 2020, thông báo trên trang web chính thức của Keyakizaka46 rằng cô rút lui khỏi nhóm.[24][25]

Ngày 4 tháng 3 năm 2020, cô mở trang web chính thức.[26]

Ngày 22 tháng 12 nắm 2020, cô mở kênh Youtube riêng [27] và đăng tải music video "Dance no Riyuu" [28]

Vào ngày 25 tháng 12 cùng năm, "Dance no Riyuu" được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số đầu tiên của Hirate Yurina.[29] Ra mắt với tư cách là một nghệ sĩ solo.

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Hirate Yurina được xem là "sự hồi sinh của Yamaguchi Momoe" và được gọi là một trong những thần tượng Nhật Bản thu hút nhất năm 2016.[30]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Chú thích Nguồn
2018 Hibiki Akui Hibiki Vai nữ chính [31]
2020 The Night Beyond the Tricornered Window Hiura Erika Vai nữ chính [32]
2021 The Fable: A Contract Killer Who Doesn't Kill Saba Hinako Vai nữ phụ [33]

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Đài Chú thích Nguồn
2016 Tokuyama Daigoro wo Dare ga Koroshitaka? Hirate Yurina TV Tokyo Vai nữ chính
2017 Zankokuna Kankyakutachi Hayama Yuzuki NTV Vai nữ chính
2021 Dragon Sakura S2 Kaede Iwasaki Tokyo Broadcasting System Vai nữ phụ [34]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả
2018 Giải thưởng phim Hochi lần thứ 43 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Hibiki Đề cử
Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng phim Nikkan Sports lần thứ 31 Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đoạt giải
2019 Giairi thưởng Elan d'or lần thứ 43 Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng phim Mainichi lần thứ 73 Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng Blue Ribbon lần thứ 61 Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng phim Tokyo Sports lần thứ 28 Diễn viên trẻ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 42 Diễn viên triển vọng của năm Đoạt giải
Giải thưởng Hội phê bình điện ảnh Nhật Bản lần thứ 28 Nữ diễn viên mới xuất sắc Đoạt giải

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tên nhóm trước đó là 鳥居坂46 (Toriizaka46)
  2. ^ “「鳥居坂46」改め「欅坂46」誕生、1期生22名が決定”. Natalie (trang web) (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ “欅坂46のデビュー曲が大ヒットした3つの要因”. NikkanSports.com. 18 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ “欅坂46・平手友梨奈「声変わりしたみたい」 怒涛の1年を振り返る” (bằng tiếng Nhật). Asahi Shimbun. ngày 14 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  5. ^ Tokyo Pop Line (ngày 27 tháng 2 năm 2017). “欅坂46、4thシングル選抜発表 平手友梨奈が4作連続センター”. Excite News (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  6. ^ “平手友梨奈、坂道AKBセンター抜擢で「秋元康、1番のお気に入りに?」 ダンススキルの高さも評価上々”. T-SITE (bằng tiếng Nhật). ngày 4 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.[liên kết hỏng]
  7. ^ “欅坂15歳センター・平手友梨奈、東京五輪「応援ソング歌いたい」”. Sports Hochi (bằng tiếng Nhật). ngày 22 tháng 8 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  8. ^ “欅坂46初主演ドラマに「みんなで乗り越えられるのが楽しい」”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha Inc. ngày 4 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  9. ^ “欅坂46・平手友梨奈「イケメンすぎる男装姿」に、ファンメロメロ!”. 日刊大衆 (bằng tiếng Nhật). Futabasha Publishers Ltd. ngày 16 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  10. ^ “欅坂46平手友梨奈を直撃!ペアを組むなら? デビューから約半年の変化、美容で心がけていることも語る”. Modelpress (bằng tiếng Nhật). ngày 18 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  11. ^ “平手友梨奈に直撃!初ランウェイで「やっちまったぁ」”. Walker+ (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 10 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  12. ^ “欅坂46平手友梨奈&渡辺梨加「LARME」初登場 新たな可愛さ開花” (bằng tiếng Nhật). Modelpress. ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  13. ^ “欅坂46平手友梨奈、修学旅行で"ナチュラル美"披露”. Modelpress (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  14. ^ a b “欅坂46平手友梨奈:"中学ラストグラビア"で「もう、オトナだよ?」 着物姿で美しく”. Mantan-Web (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  15. ^ Tokyo FM (ngày 14 tháng 4 năm 2017). “欅坂46・平手友梨奈 レギュラーラジオ番組に初登場!” (bằng tiếng Nhật). Excite News. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  16. ^ Tokyo FM (ngày 5 tháng 4 năm 2017). “欅坂46 平手友梨奈「ラジオでJK用語を学びたい!」” (bằng tiếng Nhật). Excite News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  17. ^ “Hinatazaka46's first variety show HINABINGO!” (bằng tiếng Anh). Shukan Bunshun. ngày 16 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.[liên kết hỏng]
  18. ^ “欅坂46の3人が過呼吸、紅白で「不協和音」を踊った後に。志田愛佳さん、鈴本美愉さん、平手友梨奈さん”. HuffPost (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  19. ^ “平手友梨奈が負傷、全治1カ月 武道館公演も変更”. Nikkan Sports News (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  20. ^ “欅坂46平手友梨奈、右腕負傷後初の公の場 コスメミューズに就任「驚きました」”. Oricon (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  21. ^ Biểu diễn Glass Wo Ware! theo Our Lies and Truths: Documentary of Keyakizaka46
  22. ^ “平手友梨奈、全国ツアーでステージから転倒落下”. Nikkan Sports News (bằng tiếng Nhật). 5 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  23. ^ “欅坂46平手友梨奈、日本アカデミー賞で新人俳優賞”. Natalie (trang web) (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  24. ^ “欅坂46・平手友梨奈がグループ脱退を発表”. Hochi (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  25. ^ “織田奈那、佐藤詩織、鈴本美愉、平手友梨奈に関しまして”. Keyakizaka46 (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  26. ^ “元欅坂46平手友梨奈、公式サイト開設”. Oricon (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  27. ^ “平手友梨奈”. Youtube. 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  28. ^ “平手友梨奈 『ダンスの理由』MUSIC VIDEO”. Youtube. 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  29. ^ “Trang web chính thức của Hirate Yurina”. 25 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  30. ^ “2016年、注目を集めた欅坂46平手友梨奈の魅力とは?”. Dwango.jp News (ドワンゴジェイピーnews) (bằng tiếng Nhật). ngày 26 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  31. ^ “平手友梨奈、映画初出演・初主演!「響 HIBIKI」に北川景子&アヤカ・ウィルソンら実力派”. Eiga.com. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2018.
  32. ^ “平手友梨奈、2度目の映画は岡田将生×志尊淳W主演『さんかく窓の外側は夜』! 呪いを操る女子高生役”. Cinema Cafe. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020.
  33. ^ “映画『ザ・ファブル 殺さない殺し屋』堤真一、平手友梨奈らのキャラクター場面写真が解禁!”. ScreenOnline (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
  34. ^ “平手友梨奈「ドラゴン桜」でゴールデン帯連続ドラマ初出演! バドミントンに打ち込む生徒役に: 映画ニュース”. 映画.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]