Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức Quốc Xã)
Tập đoàn quân thiết giáp số 4 | |
---|---|
4. Panzerarmee (tiếng Đức) | |
Hoạt động | 15 tháng 2 năm 1941 – 8 tháng 5 năm 1945 |
Quốc gia | Đức Quốc xã |
Quân chủng | Lục quân (Wehrmacht) |
Phân loại | Panzer |
Chức năng | Chiến tranh cơ giới |
Quy mô | Lục quân |
Tham chiến | |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | Xem Chỉ huy |
Tập đoàn quân thiết giáp số 4 (tiếng Đức: 4. Panzerarmee) là một binh đoàn xe tăng Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Là thành phần thiết giáp quan trọng của Wehrmacht, Tập đoàn quân đã tham gia vào các trận chiến quan trọng của cuộc chiến tranh Xô-Đức 1941–1945, bao gồm Chiến dịch Barbarossa, Trận Moskva, Trận Stalingrad, Trận Kursk, và Trận Kiev năm 1943.
Các chỉ huy
[sửa | sửa mã nguồn]1 | GeneraloberstErich Hoepner(1886–1944) | 15 tháng 2 năm 1941 | 7 tháng 1 năm 1942 | 326 ngày |
2 | GeneraloberstRichard Ruoff(1883–1967) | 8 tháng 1 năm 1942 | 31 tháng 5 năm 1942 | 143 ngày |
3 | GeneraloberstHermann Hoth(1885–1971) | 31 tháng 5 năm 1942 | 10 tháng 11 năm 1943 | 1 năm, 163 ngày |
4 | GeneraloberstErhard Raus(1889–1956)[38] | 10 tháng 11 năm 1943 | 21 tháng 4 năm 1944 | 163 ngày |
5 | GeneraloberstJosef Harpe(1887–1968) | 18 tháng 5 năm 1944 | 28 tháng 6 năm 1944 | 41 ngày |
6 | General der PanzertruppeWalter Nehring(1892–1983) | 28 tháng 6 năm 1944 | 5 tháng 8 năm 1944 | 38 ngày |
7 | General der PanzertruppeHermann Balck(1893–1982) | 5 tháng 8 năm 1944 | 21 tháng 9 năm 1944 | 47 ngày |
8 | General der PanzertruppeFritz-Hubert Gräser(1888–1960) | 21 tháng 9 năm 1944 | 8 tháng 5 năm 1945 | 229 ngày |
Biên chế
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 7 năm 1941 |
|
---|---|
Tháng 10 năm 1941 |
|
Tháng 12 năm 1941 |
|
Tháng 7 năm 1942 |
|
Tháng 8 năm 1942 |
|
Tháng 1 năm 1943 |
|
Tháng 3 năm 1943 |
|
Tháng 7 năm 1943 |
|
Tháng 7 năm 1944 |
|
Tháng 2 năm 1945 |
|
Tháng 5 năm 1945 |
|
Sau chiến tranh
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chiến tranh kết thúc, một trong những cựu chỉ huy của Tập đoàn quân thiết giáp số 4, Hermann Hoth, đã bị xét xử trong Phiên tòa Chỉ huy Tối cao, một trong những Phiên tòa Nuremberg Tiếp theo. Giải thích về các biện pháp khắc nghiệt của mình đối với người Do Thái và những người dân thường khác, ông tuyên bố rằng "một vấn đề phổ biến ở Nga rằng chính người Do Thái nói riêng đã tham gia rất nhiều vào các hoạt động phá hoại, gián điệp,..."[1] Hoth bị kết tội là tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người . Ngày 27 tháng 10 năm 1948, ông bị kết án 15 năm tù. Vào tháng 1 năm 1951, bản án đã được xem xét lại mà không có thay đổi gì. Hoth được tạm tha năm 1954; bản án của ông được giảm xuống thời gian thụ án vào năm 1957.[1]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Glantz, David M. (30 tháng 9 năm 2011). Operation Barbarossa: Hitler's Invasion of Russia 1941 (bằng tiếng Anh). History Press. ISBN 978-0-7524-6842-6.