Barbados
Cộng hòa Barbados
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Tiêu ngữ: "Pride and Industry" Tự hào và Cần mẫn | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Bridgetown 13°05′52″B 59°37′6″T / 13,09778°B 59,61833°T |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh |
• Ngôn ngữ địa phương | Bajan Creole |
Sắc tộc (2010[1]) |
|
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư |
|
Chính trị | |
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện đơn nhất |
Dame Sandra Mason | |
Mia Mottley | |
Lập pháp | Nghị viện |
Thượng viện | |
• Hạ viện | Hạ viện |
Lịch sử | |
Độc lập từ Anh Quốc | |
• Chủ quyền được thành lập | 30 tháng 11 năm 1966 |
7 tháng 12 năm 1966 | |
• Nền cộng hòa được thành lập | 30 tháng 11 năm 2021 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 439 km2 (hạng 183) 166 mi2 |
• Mặt nước (%) | Không đáng kể |
Dân số | |
• Ước lượng 2019 | 287,025[2] (hạng 182) |
• Điều tra 2010 | 277,821[3] |
• Mật độ | 660/km2 (hạng 15) 1,704/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2019 |
• Tổng số | $5.398 tỷ |
$18,798[4] | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2019 |
• Tổng số | $5.207 tỷ |
• Bình quân đầu người | $18,133[4] |
Đơn vị tiền tệ | Đô la Barbados ($) (BBD) |
Thông tin khác | |
HDI? (2019) | 0.814[6] rất cao · hạng 58 |
Múi giờ | UTC−4 (AST) |
Giao thông bên | trái[5] |
Mã điện thoại | +1 -246 |
Mã ISO 3166 | BB |
Tên miền Internet | .bb |
Barbados (phiên âm Tiếng Việt: Bác-ba-đốt), tên chính thức là Cộng hoà Barbados, là một đảo quốc độc lập ở phía tây của Đại Tây Dương, phía đông của biển Caribe.
Nguồn gốc tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Barbados nằm ở phía đông quần đảo Tiểu Antilles và Tây Indies. Nguồn gốc tên nước có nhiều cách giải thích khác nhau:
1. Bắt nguồn tên gọi một loại cây ăn quả không có hoa và có nhiều rau xoắn mọc khắp nơi ở đảo. Năm 1518, thực dân Tây Ban Nha lên đảo tìm bắt nô lệ để làm những công việc ở nông trường đường cát. Khắp nơi trên đảo mọc đầy loại cây ăn quả không hoa hoang dã, và trên cây mọc dài xuống những sợi tơ màu nâu đen, giống như những chòm râu. Thực dân Tây Ban Nha bèn đặt tên là "Los Barbados" có nghĩa là "đảo râu dài".
2. Bắt nguồn từ những người Indian (da đỏ) râu dài sinh sống trên đảo. Thế kỷ IX, một nhóm người Indian Alawak từ đại lục châu Mỹ vượt qua biển cả đến đảo này để mưu sinh. Trải qua hơn 400 năm sau, tộc người Caribbean ở phía bắc Nam Mỹ cũng đã đi thuyền độc mộc từ cửa sông Orinoco đến đây sinh sống bằng nghề đánh bắt cá.
Năm 1518, thực dân Tây Ban Nha chiếm giữ đảo. Năm 1605, một nhóm người Anh đầu tiên đến Barbados định cư. Năm 1624, thực dân Anh tuyên bố Barbados thuộc về mình. Năm 1627, Anh thiết lập Tổng đốc cai quản và mua từ Tây Phi đến số lượng nô lệ lớn để khai khẩn trồng trọt vườn. Năm 1834, Anh buộc phải trả tự do cho nô lệ. Năm 1958, Barbados sáp nhập vào Liên bang West Indies. Tháng 10 năm 1961, giành được chế độ tự trị nội bộ. Ngày 30 tháng 11 năm 1966, độc lập, là nước thành viên trong Khối Liên hiệp Anh.[7]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Người Tây Ban Nha đến chiếm đảo này từ năm 1518. Barbados trở thành thuộc địa Anh năm 1627. Người Da đen được đưa đến đây để khai hoang và xây dựng các đồn điền mía, chế độ nô lệ được bãi bỏ năm 1834. Quyền lực chính trị nằm trong tay các chủ đồn điền cho đến năm 1937. Đảo quốc này giành được độc lập và là nước thành viên thuộc Khối Liên hiệp Anh năm 1966. Errol Walton Barrow, lãnh đạo chính quyền tự trị từ năm 1961, trở thành Thủ tướng từ năm 1966.
Năm 1976, Thủ tướng Tom Adams thay thế Errol Walton Barrow. Năm 1994, Owen Seymour Arthur trở thành Thủ tướng mới của đảo quốc này, tiếp tục nhiệm kì mới năm 1999.
Ngày 15 tháng 9 năm 2020, toàn quyền Sandra Mason tuyên bố Barbados sẽ trở thành một nước cộng hòa vào ngày 30 tháng 11 năm 2021, ngày kỷ niệm 55 năm độc lập. Barbados thay thế Nữ hoàng Anh, Elizabeth II, bằng một Tổng thống được bầu làm nguyên thủ quốc gia. Tổng thống đầu tiên của quốc gia này là Sandra Mason, được bầu bởi nghị viện, bà trước đó là Toàn quyền của Barbados. Tại thời điểm này, Barbados sẽ không còn là một quốc gia của Vương quốc Thịnh vượng chung, nhưng vẫn sẽ duy trì tư cách thành viên tại Khối Thịnh vượng chung Anh.[8][9]
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Barbados là một quốc gia độc lập kể từ ngày 30 tháng 11 năm 1966. Barbados là quốc gia có chế độ dân chủ nghị viện, theo mô hình Hệ thống Westminster của Anh. Tổng thống đầu tiên và hiện nay là Sandra Mason. Thủ tướng là người đứng đầu của chính phủ. Quốc hội Barbados có 30 ghế.
Chính phủ hiện nay của Barbados một chính phủ liên hiệp cầm quyền giữa hai đảng là Đảng Lao động Dân chủ cầm quyền và Đảng Lao động Barbados. Đến năm 2003, hai đảng này thay nhau cầm quyền với nhiệm kỳ 2 năm.[10] Cuộc bầu cử năm 2003 đã giúp cho đảng Lao động Barbados giàng chiến thắng và lên cầm quyền nhiệm kỳ thứ ba.
Ông David Thompson, người được bầu làm Thủ tướng của Barbados vào năm 2008, qua đời vì ung thư tuyến tụy vào ngày 23 tháng 10 năm 2010. Ông đã trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho Phó Thủ tướng Freundel Stewart, người đã tuyên thệ nhậm chức trong ngày ông mất.[11][12]
Luật pháp
[sửa | sửa mã nguồn]Hiến pháp của Barbados được xem là luật tối cao của quốc gia.[13] Tổng chưởng lý là người đứng đầu ngành tư pháp độc lập. Trong lịch sử, pháp luật Barbados dựa hoàn toàn vào luật pháp của Anh với một số điều chỉnh cho sự thích ứng địa phương. Vào thời điểm độc lập, Quốc hội Anh không còn có khả năng thay đổi luật pháp địa phương theo quyết định riêng của mình. Pháp luật của Anh và quy chế pháp lý khác nhau trong luật pháp Anh tại thời điểm này, và các biện pháp khác trước khi được thông qua bởi quốc hội Barbados trở thành cơ sở của hệ thống pháp luật hiện tại của quốc gia.
Gần đây, luật pháp của Barbados có thể được định hình hoặc chịu ảnh hưởng của các tổ chức như Liên Hợp Quốc, Tổ chức các nước châu Mỹ, hoặc các diễn đàn quốc tế khác mà Barbados đã cam kết bắt buộc bởi hiệp ước. Ngoài ra, thông qua hợp tác quốc tế, các tổ chức khác có thể cung cấp cho Quốc hội Barbados về hình mẫu pháp luật để được điều chỉnh đáp ứng các hoàn cảnh địa phương trước khi đưa nó trở thành pháp luật pháp luật địa phương.
Bất kỳ một luật mới nào của Barbados cũng phải được thông qua bởi Quốc hội Barbados và được sự đồng ý của Toàn quyền và trở thành luật được chính thức ban hành.
Hệ thống tòa án
[sửa | sửa mã nguồn]Hệ thống tòa án của Barbados được thực hiện thành:
- Toà án sơ thẩm: Bao gồm tòa hình sự, dân sự trong nước, xét sử các vụ bạo lực gia đình, và các vấn đề vị thành niên.[14]
- Toà án phúc thẩm: Xử lý các kháng cáo từ Tòa án Sơ thẩm.
- Tòa án Tối cao được tạo thành từ Tòa án Sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm. Tòa án tối cao bao gồm các bộ phận của pháp luật dân sự, hình sự, và gia đình.
Tòa án Tư pháp vùng Caribe (CCJ), (có trụ sở tại Port của Tây Ban Nha, Trinidad và Tobago), là tòa án cuối cùng (thẩm quyền cuối cùng) trong hệ thống Tòa án Barbados. Nó thay thế Ủy ban tư pháp của Hội đồng Cơ mật (JCPC) trụ sở tại Luân Đôn. CCJ có thể giải quyết vấn đề tranh chấp giao dịch với các đơn vị là Vùng Caribe (CARICOM) và Kinh tế (CSME).
Địa lý và khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Barbados là đảo cực nhỏ trong số các đảo thuộc khu vực Caribe. Tương đối phẳng, nó hơi lồi lên tại khu vực trung tâm, với điểm cao nhất là núi Hillaby, trong quận Scotland, có độ cao 340 m (1.100 ft) trên mực nước biển. Đảo này nằm trong Đại Tây Dương, về phía đông của các đảo khác trong khu vực Caribe. Khí hậu mang tính nhiệt đới, với mùa mưa từ tháng 6 tới tháng 10.
Barbados thường phải chịu các tác động tồi tệ nhất của các trận bão nhiệt đới trong khu vực trong mùa mưa do nó là điểm xa về phía đông trong Đại Tây Dương trong khu vực thường xuyên xảy ra các trận bão, còn các trận bão có cường độ mạnh (hurricane) đi qua đảo với tần suất 1 trận trong mỗi 26 năm. Trận bão mạnh đáng kể gần đây nhất gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho Barbados là Bão Janet năm 1955 có cấp bão là 5 trên thang bão Saffir-Simpson.
Trong giáo xứ Saint Michael có thành phố lớn nhất và đồng thời là thủ đô của Barbado là thành phố Bridgetown. Người dân địa phương đôi khi còn gọi Bridgetown là "The City", nhưng đơn giản và phổ biến nhất chỉ là "Town". Các thị trấn nằm rải rác trên đảo còn có Holetown trong giáo xứ Saint James; Oistins trong giáo xứ Christ Church và Speightstown nằm trong giáo xứ Saint Peter.
Về mặt địa chất, Barbados bao gồm lớp san hô dày 90 m (300 ft). Mặt đất hạ thấp theo một loạt các "thềm" ở phía tây và dốc hơn ở phía đông. Phần lớn Barbados được bao quanh bằng các rạn san hô.
Khí hậu là nhiệt đới ôn hòa với 2 mùa: khô và mưa. Mùa khô (tháng 12 năm trước tới tháng 5 năm sau) và mùa mưa (tháng 6 tới tháng 11) với lượng mưa hàng năm khoảng 1.000-2.300 mm (40-90 inch).
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Barbados được chia thành 11 xã (parish):
- Christ Church
- Saint Andrew
- Saint George
- Saint James
- Saint John
- Saint Joseph
- Saint Lucy
- Saint Michael
- Saint Peter
- Saint Philip
- Saint Thomas
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Kinh tế chủ yếu dựa vào du lịch, ngân hàng và chế biến đường. Mức sống của người dân ở đảo quốc này tương đối cao. Các sản phẩm xuất khẩu: đường, mật, rượu rum, bia, hóa chất, quần áo. Việc xúc tiến dự án xây dựng cảng Charles Marina ở Speightstown tạo điều kiện cho ngành du lịch tiếp tục phát triển. Hiện nay, chính phủ ra sức giảm bớt số người thất nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Thành phần quan trọng nhất của nền kinh tế quốc đảo là hoạt động dịch vụ mang lại cho hòn đảo 3/4 tổng thu nhập quốc dần và thu hút khoảng 2/3 lực lượng lao động trong đó hoạt động mạnh nhất là lĩnh vực dịch vụ tài chính. Cuối năm 1995, trên đảo có 1.834 công ty kinh doanh đa quốc gia, 1.501 công ty thương mại nước ngoài, 230 công ty bảo hiểm và khoảng 34 ngân hàng nước ngoài có văn phòng tại Barbados. Tuy nhiên ngành du lịch mới là ngành mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn nhất. Hầu hết khách du lịch nghỉ lại ở bờ biển phía tây và phía nam hòn đảo, riêng trong năm 1995 hòn đảo đón 442.107 khách du lịch đến nghỉ lại và 484.670 người ghé vào tham quan. Ngành nông nghiệp trước đây là xương sống của nền kinh tế nhưng nay nó rất nhỏ chỉ đóng góp 5% thu nhập quốc dân và thu hút 5% lực lượng lao động.
Tính đến năm 2016, GDP của Barbados đạt 4.473 USD, đứng thứ 154 thế giới và đứng thứ 5 khu vực Caribe.
Giao thông
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù Barbados có tổng quảng đường rộng khoảng 34 km (21 dặm), một chuyến đi bằng ô tô từ Six Cross Roads ở St. Philip (phía đông nam) đến North Point ở St. Lucy (phía bắc trung tâm) có thể mất một tiếng rưỡi giờ hoặc lâu hơn do điều kiện đường sá. Barbados có một nửa số xe đăng ký là công dân.
Giao thông trên đảo tương đối thuận tiện với "taxi tuyến đường" được gọi là "ZR" (phát âm là "Zed-R") đi đến hầu hết các địa điểm trên đảo. Những chiếc xe buýt nhỏ này đôi khi có thể đông đúc, vì hành khách thường không bao giờ bị từ chối bất kể số lượng. Họ thường sẽ đi các tuyến đường đẹp hơn đến các điểm đến. Họ thường khởi hành từ thủ đô Bridgetown hoặc từ Speightstown ở phía bắc của đảo.
Bao gồm các ZR, có ba hệ thống xe buýt chạy bảy ngày một tuần (mặc dù ít thường xuyên hơn vào Chủ nhật). Có ZR, xe buýt nhỏ màu vàng và xe buýt vận tải màu xanh. Một chuyến đi trên bất kỳ phương tiện nào mỗi người phải trả 3,5 đô la. Các xe buýt nhỏ hơn từ hai hệ thống thuộc sở hữu tư nhân ("ZR" và "xe buýt nhỏ") có thể thay đổi; những chiếc xe buýt màu xanh lớn hơn từ hệ thống của Bộ Giao thông Vận tải Barbados do chính phủ điều hành, nhưng không đưa ra biên lai. Xe buýt của Bộ Giao thông Vận tải Barbados đi trong các tuyến xe buýt thường xuyên và lịch trình theo lịch trình trên toàn đất nước Barbados. Học sinh mặc đồng phục trường bao gồm một số trường Trung học đi xe miễn phí trên xe buýt của chính phủ và Bds $ 2,5 trên ZR. Hầu hết các tuyến đường yêu cầu kết nối ở Bridsville. Trụ sở chính của Bộ Giao thông Vận tải Barbados được đặt tại Nhà của Kay, Phố Roebuck, St. Michael, và các bến xe buýt và bến xe buýt được đặt tại Trạm xe buýt Đường phố Fairchild ở Phố Fairchild và Trạm xe buýt Princess Alice (trước đây là Bến xe buýt Hạ xanh ở Vườn Jubilee, Bridsville, St. Michael) ở Princess Alice Highway, Bridsville, St. Michael; Trạm xe buýt Speightstown ở Speightstown, St. Peter; Kho xe buýt Oistins ở Oistin, Nhà thờ Christ; và Kho xe buýt ngập mặn ở Rừng ngập mặn St. Philip.
Một số khách sạn cũng cung cấp cho du khách các tàu con thoi đến các điểm quan tâm trên đảo từ bên ngoài sảnh khách sạn. Có một số cơ quan cho thuê xe địa phương thuộc sở hữu và điều hành ở Barbados nhưng không có công ty đa quốc gia.
Sân bay duy nhất của hòn đảo là Sân bay Quốc tế Grantley Adams. Nó nhận các chuyến bay hàng ngày của một số hãng hàng không lớn từ các điểm trên toàn cầu, cũng như một số hãng hàng không thương mại khu vực nhỏ hơn và điều lệ. Sân bay đóng vai trò là trung tâm vận chuyển hàng không chính cho miền đông Caribbean. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, nó đã trải qua quá trình nâng cấp và mở rộng 100 triệu đô la Mỹ vào tháng 2 năm 2003 cho đến khi hoàn thành vào tháng 8 năm 2005.
Ngoài ra còn có một dịch vụ đưa đón bằng trực thăng, cung cấp dịch vụ taxi hàng không đến một số địa điểm trên đảo, chủ yếu ở vành đai du lịch Bờ Tây. Giao thông hàng không và hàng hải được quy định bởi chính quyền cảng Barbados. Các chuyến tham quan bằng máy bay trực thăng hạng sang tư nhân được đặt tại Spencers, Christ Church bên cạnh Trải nghiệm của người Canada khi nó được khai trương vào tháng 9 năm 2007 và đóng cửa vào tháng 4 năm 2010. Trực thăng Bajan được khai trương vào tháng 4 năm 1989 và đóng cửa vào cuối tháng 12 năm 2009 vì khủng hoảng kinh tế và suy thoái kinh tế.
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]Barbados có dân số khoảng 281.968 và tỷ lệ tăng dân số 0,33% (giữa năm 2005 ước tính). Barbados hiện đang được xếp hạng là quốc gia có tỉ lệ tăng dân số thấp thứ 4 ở châu Mỹ (18 trên toàn cầu), và là quốc đảo đông dân thứ thứ 10 trong khu vực, (101 trên toàn cầu). Gần 90% của dân số Barbados (còn được gọi là người Bajan) có nguồn gốc châu Phi ("Afro-Bajans") và lai giữa người gốc châu Phi và người bản địa. Các thành phần dân tộc còn lại của Barbados bao gồm người gốc châu Âu (người Anh và người châu Âu lai với người Bajan) chủ yếu là từ Vương quốc Anh, Ireland. Ngoài ra còn có người Trung Quốc, người Hồi giáo từ Ấn Độ di cư đến. Các nhóm dân tộc nhỏ khác ở Barbados bao gồm những người từ Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Canada đến định cư.
Các cộng đồng lớn nhất bên ngoài cộng đồng Barbados gốc châu Phi là:
- Người Guyana gốc Ấn Độ, đa phần họ là người nhập cư từ Guyana sang Barbados làm công nhân. Họ góp phần không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa của Barbados. Đa số người Guyana gốc Ấn Độ theo Ấn giáo.
- Người gốc châu Âu (chiếm khoảng 4% dân số) đã định cư ở Barbados kể từ thế kỷ XVI, có nguồn gốc từ Anh, Ireland và Scotland. Trong năm 1643, đã có 37.200 người da trắng ở Barbados (chiếm 86% dân số lúc đó).[16]
- Người Trung Quốc ở Barbados là cộng đồng dân tộc nhỏ hơn so với các cộng đồng người Trung Quốc ở Jamaica, Trinidad và Tobago. Hầu hết người Trung Quốc đến Barbados vào những năm 1940 trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, có nguồn gốc chủ yếu từ các lãnh thổ Hồng Kông.
- Người Liban và Syria hình thành các cộng đồng người Ả Rập trên đảo và cộng đồng thiểu số Hồi giáo trong đó có một tỷ lệ phần trăm nhỏ dân số Hồi giáo. Phần lớn người gốc Liban và Syria đến Barbados do các cơ hội thương mại. Trong những năm gần đây cộng đồng này đã suy giảm do sự di cư và nhập cư sang các nước khác.
- Người Do Thái đến Barbados ngay sau khi những người da trắng đến định cư đầu tiên năm 1627. Bridgetown có một Hội đường Do Thái lâu đời nhất ở châu Mỹ, có niên đại từ năm 1654, mặc dù cấu trúc hiện tại được xây dựng vào năm 1833 thay thế Hội đường trước do bị hủy hoại bởi cơn bão năm 1831.
- Cộng đồng người Ấn Độ đến từ Gujarat ở Ấn Độ chiếm phần lớn dân số Hồi giáo ở Barbados. Cộng đồng này thường được coi là nhóm thành công nhất trong kinh doanh, cùng với cộng đồng người Trung Quốc, hai cộng đồng dân tộc này đã góp phần rất lớn trong sự phát triển của nền Kinh tế Barbados.
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]Hầu hết người Barbados có nguồn gốc châu Phi và châu Âu là Kitô hữu (chiếm 95% dân số), chủ yếu là tín hữu Anh giáo (chiếm 40%). Các giáo phái Kitô giáo khác đáng kể Công giáo La Mã, Phong trào Ngũ Tuần, Nhân Chứng Giê-hô-va, Hội thánh Cơ Đốc Phục Lâm và Baptist. Tôn giáo dân tộc thiểu số bao gồm Ấn giáo, Hồi giáo, đạo Baha'i, Do Thái giáo và Wicca.
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Nền văn hóa của Barbados là sự pha trộn của các nền văn hóa Tây Phi, Bồ Đào Nha, Creole, Ấn Độ và Anh có mặt ở Barbados. Công dân được chính thức gọi là Barbadian. Thuật ngữ "Bajan" (phát âm là BAY-Jun) có thể xuất phát từ cách phát âm địa phương của từ Barbadian, đôi khi có thể nghe giống như "Bar-bajan"; hoặc, nhiều khả năng, từ tiếng Anh ("bayling"), tiếng Bồ Đào Nha baiano.
Sự kiện văn hóa, lễ hội lớn nhất diễn ra trên đảo là lễ hội Crop Over, được tổ chức lần đầu vào năm 1974. Cũng như nhiều quốc gia khác ở Caribbean và Mỹ Latinh, Crop Over cũng là một sự kiện quan trọng đối với nhiều người trên đảo. như hàng ngàn khách du lịch đổ về đó để tham gia vào các sự kiện thường niên. Lễ hội bao gồm các cuộc thi âm nhạc và các hoạt động truyền thống khác. Người Barbani nam và nữ thu hoạch được nhiều mía nhất được trao vương miện là Vua và Nữ hoàng của vụ mùa. Crop Over được tiến hành vào đầu tháng 7 và kết thúc bằng cuộc diễu hành hoành tráng vào Ngày Kadooment, được tổ chức vào thứ Hai đầu tiên của tháng Tám. Âm nhạc calypso/soca mới thường được phát hành và chơi thường xuyên hơn từ đầu tháng 5 để trùng với thời điểm bắt đầu lễ hội.
Ẩm thực
[sửa | sửa mã nguồn]Ẩm thực Bajan là sự pha trộn của ảnh hưởng của châu Phi, Ấn Độ, Irish, Creole và Anh. Một bữa ăn thông thường bao gồm một món ăn chính là thịt hoặc cá, thường được ướp với hỗn hợp các loại thảo mộc và gia vị, các món ăn nóng, và một hoặc nhiều món salad. Bữa ăn thường được phục vụ với một hoặc nhiều loại nước sốt. Món ăn dân tộc của Barbados là Cou-Cou & Flying Fish với nước sốt cay. Một bữa ăn truyền thống khác là "Pudding and Souse" một món thịt lợn ngâm với khoai lang ướp gia vị. Một loạt các loại hải sản và thịt cũng có sẵn.
Trung tâm du khách Mount Gay Rum ở Barbados được coi là công ty rượu rum lâu đời nhất thế giới, với chứng thư được xác nhận sớm nhất từ năm 1703. Cockspur Rum và Malibu cũng đến từ hòn đảo này. Barbados là quê hương của Nhà máy bia Banks Barbados, nơi sản xuất bia Banks, một người cho vay nhạt, cũng như Banks Amber Ale. Các ngân hàng cũng sản xuất Tiger Malt, một loại đồ uống không cồn. Bia 10 Saints được ủ ở Speightstown, St. Peter ở Barbados và được ủ trong 90 ngày trong các thùng rượu Rum của Khu bảo tồn đặc biệt Mount Gay. Nó được ủ lần đầu tiên vào năm 2009 và có sẵn ở một số quốc gia Caricom.
Âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Trong âm nhạc, Rihanna là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất của Barbados và là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất mọi thời đại, bán được hơn 200 triệu bản trên toàn thế giới. Năm 2009, cô đã được bổ nhiệm làm Đại sứ danh dự của Thanh niên và Văn hóa tại Barbados bởi cố Thủ tướng David Thompson. Ngày 30 tháng 11 năm 2021, cô được phong danh hiệu Anh hùng dân tộc Barbados bởi tổng thống Barbados đầu tiên Sandra Mason tại lễ thành lập nước Cộng hòa Barbados.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tência
- ^ United Nations. "World Population Prospects 2019".
- ^ “Barbados – General Information”. GeoHive. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b “Report for Selected Countries and Subjects”. www.imf.org. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2021.
- ^ “Barbados”. ngày 29 tháng 8 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2007. (fco.gov.uk), updated ngày 5 tháng 6 năm 2006.
- ^ Human Development Report 2020 The Next Frontier: Human Development and the Anthropocene (PDF). United Nations Development Programme. ngày 15 tháng 12 năm 2020. tr. 343–346. ISBN 978-92-1-126442-5. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2011.
- ^ Team, Caribbean Lifestyle Editorial (ngày 15 tháng 9 năm 2020). “Barbados to become an Independent Republic in 2021”. Caribbean Culture and Lifestyle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2020.
- ^ Speare-Cole, Rebecca (ngày 16 tháng 9 năm 2020). “Barbados to remove Queen as head of state by November 2021”. Evening Standard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2020.
- ^ G.O.B. (2011). “Government of Barbados”. Ministry of Foreign Affairs and Foreign Trade B.G.I.S. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Caribbean: News in the Caribbean - Caribbean360.com”. Caribbean360.com<!. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Barbados PM dies at 48”. CNN. ngày 25 tháng 10 năm 2010.
- ^ The official Constitution of Barbados[liên kết hỏng] (2006) version.
- ^ Lawcourts.gov.bb. Truy cập 4
- ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2018.
- ^ Slavery and Economy in Barbados, BBC.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Barbados
- Quần đảo Leeward thuộc Anh
- Quần đảo Leeward
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
- Cựu thuộc địa và xứ bảo hộ Anh tại châu Mỹ
- Quốc gia vùng Caribe
- Quốc gia Bắc Mỹ
- Quốc gia thành viên Cộng đồng Caribe
- Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh
- Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
- Cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha
- Đảo của Barbados
- Cựu thuộc địa Vương quốc Anh
- Thực dân Bồ Đào Nha tại châu Mỹ
- Quân chủ Bắc Mỹ
- Khởi đầu năm 1627 ở Bắc Mỹ
- Khởi đầu năm 1966 ở Bắc Mỹ
- Cựu quốc gia quân chủ Bắc Mỹ
- Đảo quốc
- Cộng hòa Thịnh vượng chung