Cộng hòa Sakha
Cộng hòa Sakha (Yakutia) Республика Саха (Якутия) (tiếng Nga) Саха Өрөспүүбүлүкэтэ (tiếng Sakha) | |||||
---|---|---|---|---|---|
— Cộng hòa — | |||||
| |||||
Bài hát: Quốc ca Cộng hòa Sakha | |||||
Toạ độ: 66°24′B 129°10′Đ / 66,4°B 129,167°Đ | |||||
Địa vị chính trị | |||||
Quốc gia | Liên bang Nga | ||||
Vùng liên bang | Viễn Đông[1] | ||||
Vùng kinh tế | Viễn Đông[2] | ||||
Thành lập | 27 tháng 4 năm 1922[3] | ||||
Thủ đô | Yakutsk | ||||
Chính quyền (tại thời điểm tháng 8 năm 2010) | |||||
- Nguyên thủ[4] | Aysen Nikolayev | ||||
- Cơ quan lập pháp | Hội đồng Nhà nước (Il Tumen)[4] | ||||
Thống kê | |||||
Diện tích[5] | |||||
- Tổng cộng | 3.083.523 km2 (1.190.555 dặm vuông Anh) | ||||
- Xếp thứ | thứ 1 | ||||
Dân số (điều tra 2010)[6] | |||||
- Tổng cộng | 958.528 | ||||
- Xếp thứ | thứ 55 | ||||
- Mật độ[7] | 0,31/km2 (0,80/sq mi) | ||||
- Thành thị | 64,1% | ||||
- Nông thôn | 35,9% | ||||
Múi giờ | Xem văn bản | ||||
ISO 3166-2 | RU-SA | ||||
Biển số xe | 14 | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Nga;[8] Tiếng Sakha; ngôn ngữ của những tộc người nhỏ có địa vị chính thức tại nơi họ sinh sống tập trung[9] | ||||
http://sakha.gov.ru/ |
Sakha, còn được gọi là Yakutia[10] (Nga: Якутия, chuyển tự. Yakutiya, IPA: [jɪˈkutʲɪjə]; tiếng Yakut: Саха Сирэ), tên chính thức Cộng hòa Sakha (Nga: Республика Саха, chuyển tự. Respublika Sakha, IPA: [rʲɪsˈpublʲɪkə sɐˈxa]; tiếng Yakut: Саха Өрөспүүбүлүкэтэ, Saxa Öröspüübülükete, IPA: [saˈxa øɾøsˈpyːbylykete]) là một chủ thể liên bang của Nga (một nước Cộng hòa).[11][12] Nước này có dân số 958.528 (thống kê 2010),[6] chủ yếu gồm người Yakut và người Nga.
Chiếm khoảng một nửa Vùng liên bang Viễn Đông, đây là vùng phân cấp hành chính lớn nhất thế giới với diện tích 3.083.523 kilômét vuông (1.190.555 dặm vuông Anh)[5] và là lãnh thổ lớn thứ tám thế giới, nếu hệ thống chủ thể liên bang của Nga được xem ra so sánh. Nó lớn hơn Argentina và nhỏ hơn Ấn Độ (3.287.590 kilômét vuông (1.269.350 dặm vuông Anh)).[5] Thủ đô là thành phố Yakutsk. Cộng hòa Sakha là một trong mười nước Cộng hòa của các dân tộc Turk thuộc Liên bang Nga.[13] Cộng hòa Sakha được biết đến vì khí hậu khắc nghiệt, với nhiệt độ thấp nhất Bắc bán cầu được ghi nhận tại Verkhoyansk và Oymyakon (nhiệt độ trung bình mùa đông thường xuyên thấp dưới −35 °C (−31 °F) ở nhiều điểm dân cư, gồm cả Yakutsk). Tuy vậy, mùa hè tại đây lại rất ấm.
Sakha là quê hương của những dân tộc săn bắn hái lượm và chăn dắt tuần lộc như người Evenk và người Yukaghir. Di cư từ khu vực xung quanh hồ Baikal, người Yakut lần đầu tiên định cư bên dòng sông Lena vào khoảng những thế kỷ 9 và 16. Sakha trở thành tỉnh Yakutsk của Đế quốc Nga vào đầu thế kỷ 17, và người dân bản địa của vùng này đã nộp cống vật sau khi vùng đất của họ bị xâm chiếm. Trong khi giai đoạn đầu sau cuộc chinh phạt của Nga chứng kiến dân số Sakha giảm 70%, thì thời kỳ Nga hoàng cũng chứng kiến sự bành trướng của nhóm dân tộc Sakha từ trung lưu sông Lena và dọc theo sông Vilyuy. Sakha là nơi diễn ra cuộc chiến cuối cùng trong Nội chiến Nga và tỉnh Yakutsk trở thành CHXHCNXVTT Yakut vào năm 1922. Thời kỳ Xô viết chứng kiến sự di cư của nhiều người dân tộc Nga và Ukraina vào khu vực. Cộng hòa Sakha (Yakutia) hiện đại được thành lập năm 1991 sau khi Liên Xô tan rã.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Thời tiền sử
[sửa | sửa mã nguồn]Siberia, và đặc biệt là Sakha có ý nghĩa cổ sinh vật học, vì nó chứa xác của các động vật thời tiền sử từ Thế Pleistocen, được bảo quản trong băng vĩnh cửu. Vào năm 2015, các thi thể đông cứng của Dina và Uyan, những con sư tử châu Âu đã được tìm thấy. Vùng này cũng là nơi có thi thể của Yuka và một con voi ma mút lông xoăn khác từ Oymyakon, một con tê giác lông mượt từ sông Kolyma, bò rừng và ngựa từ Yukagir.[14] Vào tháng 6 năm 2019, cái đầu bị cắt đứt nhưng vẫn được bảo quản của một con sói lớn từ Thế Pleistocen, có niên đại hơn 40.000 năm trước, đã được tìm thấy gần sông Tykhkhakh.[15][16][17]
Văn hóa Ymyakhtakh (khoảng năm 2200–1300 trước Công nguyên) là một nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới ở Siberia, với một chân trời khảo cổ rất rộng lớn. Nguồn gốc của nó là ở Sakha, lưu vực sông Lena. Từ đó nó lan rộng cả về phía đông và phía tây.[18]
Thời trung đại
[sửa | sửa mã nguồn]Người Yakut có thể đã định cư tại khu vực này sớm nhất là vào thế kỷ thứ 9 hoặc muộn nhất là vào thế kỷ 16, mặc dù rất có thể có một vài cuộc di cư. Họ di cư lên phía bắc từ xung quanh hồ Baikal đến trung lưu sông Lena do áp lực của người Buryat.[19] Những ngôn ngữ Siberia nguyên thủy và Tungus hầu hết bị đồng hóa với tiếng Yakut vào thế kỷ 17.[20]
Người Nga xâm chiếm
[sửa | sửa mã nguồn]Sa quốc Nga bắt đầu cuộc chinh phạt vùng Siberia vào thế kỷ 17, bành trướng về phía đông sau sự thất bại của Hãn quốc Đồ Lan. Thái Kim Đạt Khắc Hán (泰金達克漢), một vị vua của Sakha Khangalassky, đã trao lãnh thổ của mình cho người Nga định cư để đổi lấy một hiệp ước quân sự bao gồm chiến tranh chống lại phiến quân bản địa của tất cả các vùng tại Đông Bắc Á (Magadan, Chukotka, Kamchatka và Sakhalin).
Vào tháng 8 năm 1638, Chính quyền Moscow đã thành lập một đơn vị hành chính mới với trung tâm hành chính Lensky Ostrog, thành phố Yakutsk tương lai, được thành lập bởi Pyotr Beketov vào năm 1632.
Sự xuất hiện của những người định cư Nga tại vùng Russkoye Ustye hẻo lánh ở đồng bằng Indigirka cũng được cho là có từ thế kỷ 17.[21]
Những người định cư Nga bắt đầu thành lập một cộng đồng vào thế kỷ 18, nơi đã áp dụng một số phong tục Sakha nhất định và thường được gọi là Yakutyane (Якутя́не). Tuy nhiên, dòng người định cư sau này đã đồng hóa vào văn hóa Nga truyền thống vào thế kỷ 20.
Đế quốc Nga
[sửa | sửa mã nguồn]Trong một cải cách hành chính năm 1782, tỉnh Irkutsk đã được thành lập.
Năm 1805, tỉnh Yakutsk được tách khỏi tỉnh Irkutsk. Với sự hình thành của tỉnh Primorskaya vào năm 1856, các vùng lãnh thổ thuộc Thái Bình Dương của Nga đã bị tách khỏi Sakha.
Người Nga đã sản xuất nông nghiệp tại lưu vực sông Lena. Các thành viên của các nhóm tôn giáo bị lưu đày đến Sakha trong nửa sau của thế kỷ 19 bắt đầu trồng lúa mì, yến mạch và khoai tây. Việc buôn bán lông thú đã thiết lập một nền kinh tế tiền mặt. Công nghiệp và giao thông bắt đầu phát triển vào cuối thế kỷ 19 và đầu thời kỳ Xô Viết. Đây cũng là khởi đầu của khảo sát địa chất, khai thác và sản xuất chì địa phương. Những chiếc tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên và xà lan đã đến.
Sự xa xôi cách trở của Sakha, thậm chí so với phần còn lại của Siberia, khiến nó trở thành nơi chính phủ Sa hoàng và Cộng sản Nga lưu đày những người bất đồng chính kiến. Trong số những người nổi tiếng bị giam cầm thời Sa hoàng có nhà văn dân chủ Nikolay Chernyshevsky; nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhà văn Vladimir Zenzinov, người đã để lại một bản báo cáo thú vị về những trải nghiệm ở Bắc Cực của mình; và nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa Ba Lan Wacław Sieroszewski, người tiên phong trong nghiên cứu dân tộc học về người Sakha. Một phong trào dân tộc Sakha lần đầu tiên xuất hiện trong Cách mạng 1905. Một Liên minh Yakut được thành lập dưới sự lãnh đạo của một luật sư Sakha và ủy viên hội đồng thành phố tên là Vasily Nikiforov, người chỉ trích các chính sách và tác động của chủ nghĩa thực dân Nga, và yêu cầu đại diện tại Duma Quốc gia. Liên minh Yakut đã hành động để cho hội đồng thành phố Yakutsk nổi dậy và được hàng ngàn người Sakha từ nông thôn tham gia, nhưng các nhà lãnh đạo đã bị bắt giữ và phong trào nổ ra vào tháng 4 năm 1906.[22]
Thời Xô viết
[sửa | sửa mã nguồn]Sakha là nơi diễn ra giai đoạn cuối của Nội chiến Nga, Cuộc nổi dậy Yakut. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1922, tỉnh Yakutsk cũ trở thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Yakut, mặc dù trên thực tế, phần phía đông của lãnh thổ, bao gồm thành phố Yakutsk, đã bị quân Bạch vệ kiểm soát. Sakha đã trải qua quá trình tập thể hóa đáng kể từ năm 1929 đến 1934, với số hộ gia đình trải qua quá trình tập thể hóa tăng từ 3,6% vào năm 1929 lên 41,7% vào năm 1932. Chính sách của Sakha bị ảnh hưởng nặng nề dẫn đến dân số giảm từ 240.500 vào năm 1926 xuống còn 236.700 (Điều tra dân số năm 1959).[23]
Thời hậu Xô viết
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1992, sau khi Liên Xô sụp đổ, Cộng hòa Sakha (Yakutia) được thành lập. Kể từ năm 2000, nó là một phần hành chính của Vùng liên bang Viễn Đông Nga.[24]
Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]- Biên giới:
- Nội địa: Khu tự trị Chukotka (Đ), Tỉnh Magadan (Đ/ĐN), Vùng Khabarovsk (ĐN), Tỉnh Amur (N), Vùng Zabaykalsky (N), Tỉnh Irkutsk (N/TN), Vùng Krasnoyarsk (T).
- Đường biển: Bắc Băng Dương (gồm Biển Laptev và Biển Đông Siberia) (B).
- Đỉnh cao nhất: Đỉnh Pobeda (3.003 m), Đỉnh Mus-Khaya (2.959 m or 3.011 m)
- Khoảng cách tối đa từ Bắc tới Nam: 2.500 km (1.600 mi)
- Khoảng cách tối đa từ Đông sang Tây: 2.000 km (1.200 mi)
Sakha trải dài từ đảo Henrietta ở xa về phía bắc và giáp với các biển Laptev và Đông Siberi thuộc Bắc Băng Dương. Những vùng nước này là những nơi lạnh nhất và băng giá nhất trong tất cả các biển tại Bắc Bán cầu và bị băng bao phủ trong khoảng từ 9-10 tháng trong năm. Quần đảo Tân Siberi là một phần lãnh thổ của nước Cộng hòa. Sau khi Nuvanut được tách ra khỏi Lãnh thổ Tây Bắc của Canada, Sakha trở thành thực thể dưới quốc gia lớn nhất trên thế giới, với diện tích 3.103.200 km² (1.198.200 mi²),[5] nhỏ hơn một chút so với lãnh thổ Ấn Độ.
Sakha được phân thành ba vành đai thực vật lớn. Khoảng 40% Sakha năm trên Vòng cực bắc và tất cả chúng bị tầng đất đóng băng vĩnh cứu bao phủ, điều này ảnh hưởng rất lớn tới sinh thái của vùng, ngoài ra có các khu rừng hạn chế ở vùng phía nam. Lãnh nguyên Bắc cực và cận Bắc cực nằm ở khu vực trung tâm, tại đây địa y và rêu phát triển thành các tấm thảm xanh và là loại thức ăn cho tuần lộc. Ở phía nam của vãnh đai lãnh nguyên, có lác đác các cây thông và thông rụng lá Siberia lùn được trồng dọc theo các sông. Bên dưới lãnh nguyên là các vùng rừng taiga rộng lớn. Các cây thông rụng lá thống trị ở phía bắc và linh sam và thông bắt đầu xuất hiện ở phía nam. Rừng taiga chiếm khoảng 47% diện tích của Sakha và trong đó có 90% là rừng thông rụng lá.
Trong những năm gần đây, sự nóng lên toàn cầu đã gây ra sự tan chảy của lớp băng dày trước đây. Hàng ngàn ngôi nhà có nguy cơ sụp đổ trong bùn vào mùa hè, trong khi các ngôi làng phía bắc bị ngập lụt.[25]
Các múi giờ
[sửa | sửa mã nguồn]Cộng hòa Sakha là chủ thể liên bang duy nhất của Nga sử dụng nhiều hơn một múi giờ. Sakha có ba múi giờ (không có Quy ước giờ mùa hè).
- Múi giờ Yakutsk (YAKT, UTC+9). Bao phủ lãnh thổ của nước Cộng hòa ở phía tây sông Lena cũng như địa bàn các huyện nằm ở hai bên sông Lena.
- Múi giờ Vladivostok (VLAT, UTC+10). Bao phủ các huyện: Oymyakonsky, Ust-Yansky, Verkhoyansky.[26]
- Múi giờ Magadan (SRET, UTC+11). Bao phủ các huyện: Abyysky, Allaikhovsky, Momsky, Nizhnekolymsky, Srednekolymsky, Verkhnekolymsky.
Sông
[sửa | sửa mã nguồn]Sông Lena (4.310 km), chảy theo hướng bắc, bao gồm nhiều nhánh sông nhỏ nằm ở Dãy núi Verkhoyansk. Các con sông lớn bao gồm:
- Sông Vilyuy (2.650 km) nhánh sông Lena
- Sông Olenyok (2.292 km)
- Sông Aldan (2.273 km) nhánh sông Lena
- Sông Kolyma (2.129 km)
- Sông Indigirka (1.726 km)
- Sông Alazeya (1.590 km)
- Sông Amga (1.462 km) nhánh sông Aldan
- Sông Olyokma (1.320 km) nhánh sông Lena
- Sông Markha (1.181 km) nhánh sông Vilyuy
- Sông Tyung (1.092 km) nhánh sông Vilyuy
- Sông Maya (1.053 km) nhánh sông Aldan
- Sông Anabar (939 km)
- Sông Yana (872 km)
- Sông Morkoka (812 km) nhánh sông Markha
- Sông Uchur (812 km) Aldan River tributary
- Sông Linde (804 km) nhánh sông Lena
- Sông Nyuya (798 km) nhánh sông Lena
- Sông Selennyakh (796 km) nhánh sông Indigirka
Hồ
[sửa | sửa mã nguồn]Nước Cộng hòa có hơn 800.000 hồ.[27] Những hồ lớn nhất là:
Núi
[sửa | sửa mã nguồn]Dãy núi lớn nhất của Sakha, dãy Verkhoyansk, chạy song song và phía đông sông Lena, tạo thành một vòng cung lớn bắt đầu từ biển Okhotsk và kết thúc ở biển Laptev. Dãy núi này có nhiều dãy phụ.[28]
Dãy Chersky nằm ở phía động của dãy Verkhoyansk và có đỉnh cao nhất ở Sakha, Đỉnh Pobeda (3.147 m). Đỉnh cao thứ hai là Đỉnh Mus-Khaya đạt 3.011 m.
Dãy Stanovoy giáp với Sakha ở phía nam.
Bán đảo
[sửa | sửa mã nguồn]Đường bờ biển rộng lớn của nước Cộng hòa bao gồm một số bán đảo; nổi bật nhất (theo thứ tự từ tây sang đông) là:
- Bán đảo Uryung-Tumus
- Bán đảo Nordvik
- Bán đảo Terpyay-Tumsa
- Bán đảo Bykovsky[29]
- Bán đảo Buor-Khaya
- Bán đảo Manyko
- Bán đảo Shirokostan
- Bán đảo Merkushina Strelka
- Bán đảo Lopatka
Đảo
[sửa | sửa mã nguồn]Từ tây sang đông các đảo và quần đảo lớn của Sakha là:
- Đảo Preobrazheniya
- Đảo Bolshoy Begichev
- Đảo Maliy Begichev
- Đảo Peschany
- Đảo Salkay
- Orto Ary
- Daldalakh
- Đảo Dyangylakh
- Quần đảo Dunay
- Đảo Leykina
- Đảo Brusneva
- Đảo Muostakh
- Đảo Ulakhan Ary
- Đảo Yarok
- Quần đảo Shelonsky
- Đảo Makar
- Đảo Stolbovoy
- Quần đảo Tân Siberia, bao gồm hòn đảo lớn nhất Sakha[30]
- Quần đảo De Long
- Quần đảo Medvezhyi
- Đảo Kolesovsky
- Kolesovskaya Otmel
- Đảo Gabyshevskiy
- Đảo Kamenka
Khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Sakha được biết đến với khí hậu khắc nghiệt, trong đó Dãy núi Verkhoyansk là vùng lạnh nhất ở bắc bán cầu. Cực giá lạnh ở Bắc bán cầu nằm ở Verkhoyansk, nơi đây nhiệt độ xuống tới mức −67.8 °C (−90 °F) năm 1892 và tại Oymyakon, nơi nhiệt độ từng xuống đến −67.7 °C (−89.9 °F) năm 1933.
- Nhiệt độ trung bình tháng Một: −28 °C (−18,4 °F) (bờ biển) tới −47 °C (−52,6 °F) (Cực giá lạnh).
- Nhiệt độ trung bình tháng tháng Bảy: +2 °C (35,6 °F) (bờ biển) tới +19 °C (66,2 °F) (vùng trung tâm).
- Lượng mưa trung bình: 200 mm (vùng trung tâm) tới 700 mm (những ngọn núi ở vùng Đông Sakha).
Địa điểm | tháng 1 (°C) | tháng 7 (°C) |
---|---|---|
Aldan | −21,9/−30,6 | 22,6/10,9 |
Neryungri | −26,8/-33,9 | 21,8/10,9 |
Olyokminsk[31] | −26,2/−34,6 | 24,9/12 |
Oymyakon[32] | −42,5/−50 | 22,7/6,1 |
Verkhoyansk[33] | −42,4/−48,3 | 23,5/9,7 |
Yakutsk[34] | −35,1/−41,5 | 25,5/12,7 |
Saskylakh | −29,2/−36,7 | 16,8/7,7 |
Tiksi | −26,7/−33,8 | 12,1/3,9 |
Tài nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Sakha có nguồn tài nguyên phong phú. Ở đây có nguồn dự trữ lớn các tài nguyên như dầu, chất khí, than, kim cương, vàng, bạc, thiếc, wolfram và nhiều tài nguyên khác. 99% kimcương của Nga và 25% kim cương của thế giới được khai thác ở Sakha.[35][36]
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]- Abyysky
- Aldansky
- Allaikhovsky
- Amginsky
- Anabarsky
- Bulunsky
- Churapchinsky
- Eveno-Bytantaysky
- Gorny
- Khangalassky
- Kobyaysky
- Lensky
- Megino-Kangalassky
- Mirninsky
- Momsky
- Namsky
- Neryungrinsky
- Nizhnekolymsky
- Nyurbinsky
- Olenyoksky
- Olyokminsky
- Oymyakonsky
- Srednekolymsky
- Suntarsky
- Tattinsky
- Tomponsky
- Ust-Aldansky
- Ust-Maysky
- Ust-Yansky
- Verkhnekolymsky
- Verkhnevilyuysky
- Verkhoyansky
- Vilyuysky
- Zhigansky
- Yakutsk
Giao thông
[sửa | sửa mã nguồn]Giao thông đường thủy chiếm ưu thế tại Sakha. Ở nước Cộng hòa có sáu cảng sông, hai cảng biển (Tiksi và Zelyony Mys). Sakha có bốn công ty vận chuyển tàu thuyền hoạt động. Tuyến đường thủy chính của nước Cộng hòa là sông Lena, kết nối Yakutsk với ga xe lửa Ust-Kut ở tỉnh Irkutsk.
Giao thông đường không là quan trọng đối với việc vận chuyển hành khách. Các tuyến bay kết nối Sakha với hầu hết các khu vực khác của nước Nga. Sân bay Yakutsk là nơi đón khách quốc tế đến nước Cộng hòa.
Có hai tuyến đường liên bang đi qua Sakha: Yakutsk-Bolshoy Never và Yakutsk-Magadan. Tuy nhiên, do có tầng đất đóng băng vĩnh cửu, việc sử dụng nhựa đường là không thực tế, bởi vậy các tuyến đường làm bằng đất sét. Khi có các trận mưa lớn đổ xuống khu vực, đường sẽ bị biến thành bãi bùn, đôi khi sẽ cản trở việc đi lại của hành khách.[37]
Tuyến đường sắt Berkakit-Tommot hiện vẫn đang hoạt động. Tuyến đường kết nối Tuyến chính Baikal Amur với các trung tâm công nghiệp tại miền nam Sakha.
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]- Dân số
- 958,528 (Điều tra dân số 2010);[6] 949,280 (Điều tra dân số 2002);[38] 1,081,408 (Điều tra dân số năm 1989).[39]
Thống kê dân số
[sửa | sửa mã nguồn]Dân số trung bình (x 1000) | Sinh | Tử | Biến động tự nhiên | Tỷ lệ sinh (trên 1000) | Tỷ lệ tử (trên 1000) | Biến động tự nhiên (trên 1000) | |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1970 | 674 | 13.899 | 5.700 | 8.199 | 20,6 | 8,5 | 12,2 |
1975 | 775 | 15.636 | 6.242 | 9.394 | 20,2 | 8,1 | 12,1 |
1980 | 887 | 18.132 | 7.501 | 10.631 | 20,4 | 8,5 | 12,0 |
1985 | 1.002 | 22.823 | 7.266 | 15.557 | 22,8 | 7,3 | 15,5 |
1990 | 1.115 | 21.662 | 7.470 | 14.192 | 19,4 | 6,7 | 12,7 |
1991 | 1.110 | 19.805 | 7.565 | 12.240 | 17,8 | 6,8 | 11,0 |
1992 | 1.090 | 17.796 | 8.710 | 9.086 | 16,3 | 8,0 | 8,3 |
1993 | 1.072 | 16.771 | 9.419 | 7.352 | 15,6 | 8,8 | 6,9 |
1994 | 1.051 | 16.434 | 10.371 | 6.063 | 15,6 | 9,9 | 5,8 |
1995 | 1.029 | 15.731 | 10.079 | 5.652 | 15,3 | 9,8 | 5,5 |
1996 | 1.015 | 14.584 | 9.638 | 4.946 | 14,4 | 9,5 | 4,9 |
1997 | 1.003 | 13.909 | 9.094 | 4.815 | 13,9 | 9,1 | 4,8 |
1998 | 986 | 13.640 | 8.856 | 4.784 | 13,8 | 9,0 | 4,9 |
1999 | 970 | 12.724 | 9.480 | 3.244 | 13,1 | 9,8 | 3,3 |
2000 | 960 | 13.147 | 9.325 | 3.822 | 13,7 | 9,7 | 4,0 |
2001 | 954 | 13.262 | 9.738 | 3.524 | 13,9 | 10,2 | 3,7 |
2002 | 950 | 13.887 | 9.700 | 4.187 | 14,6 | 10,2 | 4,4 |
2003 | 949 | 14.224 | 9.660 | 4.564 | 15,0 | 10,2 | 4,8 |
2004 | 950 | 14.716 | 9.692 | 5.024 | 15,5 | 10,2 | 5,3 |
2005 | 950 | 13.591 | 9.696 | 3.895 | 14,3 | 10,2 | 4,1 |
2006 | 950 | 13.713 | 9.245 | 4.468 | 14,4 | 9,7 | 4,7 |
2007 | 951 | 15.268 | 9.179 | 6.089 | 16,1 | 9,7 | 6,4 |
2008 | 953 | 15.363 | 9.579 | 5.784 | 16,1 | 10,1 | 6,1 |
2009 | 955 | 15.970 | 9.353 | 6.617 | 16,7 | 9,8 | 6,9 |
2010 | 957 | 16.109 | 9.402 | 6.707 | 16,8 | 9,8 | 7,0 |
Những thành phố lớn
[sửa | sửa mã nguồn]Dân tộc
[sửa | sửa mã nguồn]Theo điều tra năm 2010, thành phần dân tộc của nước Cộng hòa là:[6]
- 466.492 người Yakut (49,9%)
- 353.649 người Nga (37,8%)
- 20.341 người Ukraina (2,2%)
- 21.080 người Evenk (2,2%)
- 15.071 người Even (1,6%)
- 8.122 người Tatar (0,9%)
Dân tộc | 1926 | 1939 | 1959 | 1970 | 1979 | 1989 | 2002 | 2010 1 | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | |
người Yakut | 235.926 | 81,6% | 233.273 | 56,5% | 226.053 | 46,4% | 285.749 | 43,0% | 313.917 | 36,9% | 365.236 | 33,4% | 432.290 | 45,5% | 466.492 | 49,9% |
người Dolgan | 0 | 0,0% | 10 | 0,0% | 64 | 0,0% | 408 | 0,0% | 1.272 | 0,1% | 1.906 | 0,2% | ||||
người Evenk | 13.502 | 4,7% | 10.432 | 2,5% | 9.505 | 2,0% | 9.097 | 1,4% | 11.584 | 1,4% | 14.428 | 1,3% | 18.232 | 1,9% | 21.008 | 2,2% |
người Even | 738 | 0,3% | 3.133 | 0,8% | 3.537 | 0,7% | 6.471 | 1,0% | 5.763 | 0,7% | 8.668 | 0,8% | 11.657 | 1,2% | 15.071 | 1,6% |
người Yukaghir | 396 | 0,1% | 267 | 0,1% | 285 | 0,1% | 400 | 0,1% | 526 | 0,1% | 697 | 0,1% | 1,097 | 0,1% | 1,281 | 0,1% |
người Chukchi | 1298 | 0,4 | 400 | 0,1% | 325 | 0,1% | 387 | 0,1% | 377 | 0,0% | 473 | 0,0% | 602 | 0,1% | 670 | 0,1% |
người Nga | 30.156 | 10,4% | 146.741 | 35,5% | 215.328 | 44,2% | 314.308 | 47,3% | 429.588 | 50,4% | 550.263 | 50,3% | 390.671 | 41,2% | 353.649 | 37,8% |
người Ukraina | 138 | 0,0% | 4.229 | 1,0% | 12.182 | 2,5% | 20.253 | 3,0% | 46.326 | 5,4% | 77.114 | 7,0% | 34.633 | 3,6% | 20.341 | 2,2% |
người Tatar | 1.671 | 0,6% | 4.420 | 1,1% | 5.172 | 1,1% | 7.678 | 1,2% | 10.976 | 1,3% | 17.478 | 1,6% | 10.768 | 1,1% | 8.122 | 0,9% |
Khác | 5.260 | 1,8% | 10.303 | 2,5% | 14.956 | 3,1% | 19.770 | 3,0% | 32.719 | 3,8% | 59.300 | 5,4% | 48.058 | 5,1% | 46.124 | 4,9% |
1 23.864 người không tự nhận dân tộc. Người ta ước tính tỷ lệ dân tộc của những người này tương đương với những người tự tuyên bố.[40] |
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi rơi vào tay đế quốc Nga, phần lớn cư dân tại địa phương theo đức tin Tengri giáo (những người nói tiếng Turk có nguồn gốc từ Trung Á) hay Shaman giáo (những người Cổ châu Á bản địa) với các shaman "sáng" (lãnh đạo cộng đồng) và "tối" (chữa bệnh bằng các yếu tố tâm linh). Dưới sự kiểm soát của người Nga, người dân địa phương đã cải sang Chính Thống giáo Nga và nhận tên gọi Kitô giáo Chính Thống, song trên thực tế hầu hết cư dân vẫn theo các tôn giáo truyền thống. Dưới thời Xô viết, hầu hết hay tất cả các shaman đã qua đời mà không có người kế tục.
Hiện nay, trong khi Kitô giáo Chính Thống vẫn được ủng hộ, vẫn có các mối quan tâm và hoạt động theo hướng khôi phục lại các tôn giáo truyền thống. Năm 2008, lãnh đạo Chính Thống giáo đã mô tả thế giới quan của người dân bản địa tại nước Cộng hòa là "dvoyeverie" (hệ thống tín ngưỡng kép) hay một khuy hướng hướng đến thuyết hổ lốn, do trong các sự kiện chuyển tiếp trong cuộc đời, các cư dân bản địa đôi khi mời các shaman trước, sau đó một linh mục Chính Thống giáo tiến hành nghi lễ.[41]
Theo trung tâm Thông tin Tổng thống Cộng hòa Sakha (Информационный центр при Президенте РС(Я)), nhân khẩu học tại nước Cộng hòa như sau:[42]
- Chính Thống giáo: 44,9%
- Shaman giáo: 26,2%
- Không tôn giáo: 23,0%
- Phong trào Tân Giáo: 2,4%
- Hồi giáo: 1,2%
- Phật giáo: 1,0%
- Tin Lành: 0,9%
- Công giáo: 0,4%
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Người đứng đầu Yakutia là Nguyên thủ (trước đây là Tổng thống). Nguyên thủ đầu tiên của Cộng hòa Sakha là Mikhail Yefimovich Nikolayev.[43] Nguyên thủ hiện tại là Aysen Nikolayev, từ ngày 28 tháng 5 năm 2018.[44] Cơ quan lập pháp tối cao của cơ quan nhà nước ở Sakha là một Hội đồng được gọi là Il Tumen. Chính phủ Cộng hòa Sakha (Yakutia) là cơ quan hành pháp của cơ quan nhà nước. Cộng hòa thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ về văn hóa, chính trị, kinh tế và công nghiệp với các quốc gia Turk có chủ quyền.[45][46][47]
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Công nghiệp đóng góp trên 50% tổng sản phẩm quốc nội của Sakha, chủ yếu dựa vào khai thác khoáng sản. Các hoạt động kinh doanh tập trung chủ yếu tại thủ đô Yakutsk, cũng như ở Aldan, Mirny, Neryungri, Pokrovsk và Udachny. Các ngành khai khoáng kim cương, vàng và thiếc là trung tâm trong nền kinh tế. Quặng Uranium cũng đã bắt đầu được khai thác Người Sakha nói tiếng Turk tham gia vào các hoạt động chính trị, chính quyền, tài chính, kinh tế và chăn nuôi gia súc. Còn người bản địa Cổ châu Á thì chủ yếu là thợ săn, người đánh cá và chăn nuôi tuần lộc. Tính đến năm 2008, Cộng hòa Sakha là chủ thể liên bang phát triển thứ 19 của Nga.
Các công ty lớn nhất trong vùng là Alrosa, Yakutugol, Yakutskenergo, Yakutia Airlines.[48]
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Các cơ sở quan trọng nhất của giáo dục đại học tại đây bao gồm Đại học Liên bang Đông Bắc[49] (trước đây là Đại học quốc gia Yakutsk) và Học viện Nông nghiệp Nhà nước Yakutsk.
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Yakutia có nhiều nhà hát như Nhà hát kịch nhà nước Nga mang tên A. S. Pushkin; Nhà hát Sakha mang tên P. A. Oyunsky; Nhà hát Opera và Ba lê Học thuật Nhà nước mang tên D. K. Sivtsev.
Cũng có một số bảo tàng ở vùng này. Chúng bao gồm Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Sakha, Bảo tàng Truyền thuyết và Lịch sử Địa phương mang tên E. Yaroslavsky, và Bảo tàng Khomus và Bảo tàng Permafrost.
Ngành công nghiệp điện ảnh địa phương có biệt danh "Sakhawood".[50]
Ngày lễ
[sửa | sửa mã nguồn]Người nổi tiếng
[sửa | sửa mã nguồn]- Platon Oyunsky, lãnh đạo đầu tiên của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Yakut,[52] cha đẻ của nền văn học hiện đại Sakha
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Ẩm thực Sakha
- Công viên cột thiên nhiên Lena
- Danh sách khu định cư nông thôn tại Cộng hòa Sakha
- Âm nhạc Cộng hòa Sakha
- Dao Yakut
- Tiếng Yakut
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Президент Российской Федерации. Указ №849 от 13 мая 2000 г. «О полномочном представителе Президента Российской Федерации в федеральном округе». Вступил в силу 13 мая 2000 г. Опубликован: "Собрание законодательства РФ", №20, ст. 2112, 15 мая 2000 г. (Tổng thống Liên bang Nga. Sắc lệnh #849 ngày 13-5-2000 Về đại diện toàn quyền của Tổng thống Liên bang Nga tại Vùng liên bang. Có hiệu lực từ 13-5-2000.).
- ^ Госстандарт Российской Федерации. №ОК 024-95 27 декабря 1995 г. «Общероссийский классификатор экономических регионов. 2. Экономические районы», в ред. Изменения №5/2001 ОКЭР. (Gosstandart của Liên bang Nga. #OK 024-95 27-12-1995 Phân loại toàn Nga về các vùng kinh tế. 2. Các vùng kinh tế, sửa đổi bởi Sửa đổi #5/2001 OKER. ).
- ^ Minahan, James (2002). Encyclopedia of the Stateless Nations: S-Z. Greenwood Publishing Group. tr. 1630ff.
- ^ a b Constitution of the Sakha (Yakutia) Republic 53.1
- ^ a b c d Rosstat (Russian Statistical Service), 2010 Lưu trữ 2012-10-18 tại Wayback Machine (xls). Truy cập 15 June 2012.
- ^ a b c d Cục Thống kê Quốc gia Liên bang Nga (2011). “Всероссийская перепись населения 2010 года. Том 1” [2010 All-Russian Population Census, vol. 1]. Всероссийская перепись населения 2010 года [Kết quả sơ bộ Điều tra dân số toàn Nga năm 2010] (bằng tiếng Nga). Cục Thống kê Quốc gia Liên bang Nga.
- ^ Giá trị mật độ được tính bằng cách chia dân số theo điều tra năm 2010 cho diện tích chỉ ra trong mục "Diện tích". Lưu ý rằng giá trị này có thể không chính xác do diện tích ghi tại đây không nhất thiết phải được diều tra cùng một năm với điều tra dân số.
- ^ Ngôn ngữ chính thức trên toàn lãnh thổ Nga theo Điều 68.1 Hiến pháp Nga.
- ^ Constitution of the Sakha (Yakutia) Republic, Article 46
- ^ “Sakha | republic, Russia”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2019.
- ^ Конституция Российской Федерации. Ст. 5, пп. 1, 2
- ^ “Конституция (Основной Закон) Республики Саха (Якутия) / Глава 1 Основы конституционного строя”. constitution.garant.ru. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2017.
- ^ “Turkic Republics and Communities - Turks, Turkish Nations, Turk Societies”. Khazaria.com. 3 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Meet this extinct cave lion, at least 10,000 years old – world exclusive”. siberiantimes.com. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2016.
- ^ Saplakoglu, Yasemin (10 tháng 6 năm 2019). “Severed Head of a Giant 40,000-Year-Old Wolf Discovered in Russia”. Live Science. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Still snarling after 40,000 years, a giant Pleistocene wolf discovered in Yakutia”. The Siberian Times. 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Frozen wolf's head found in Siberia is 40,000 years old”. The Guardian. Reuters. 13 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
- ^ Kicki Näslund. “Short summary of Siberian pre-history and cultures”. Academia.edu.
- ^ Jordan, Bella Bychkova; Jordan-Bychkov, Terry G. (2000). Siberian Village: Land and Life in the Sakha Republic. University Of Minnesota Press. tr. 38. ISBN 978-0816635696.
- ^ “Scott Polar Research Institute — Republic of Sakha”. Spri.cam.ac.uk. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2014.
- ^ A. I. Gogolev, "История Якутии: (Обзор исторических событий до начала ХХ в.)" (History of Yakutia: Review of Historical Events to the beginning of the 20th century Lưu trữ tháng 5 27, 2005 tại Wayback Machine) Yakutsk, 1999.
- ^ Forsyth, James (1992). A History of the Peoples of Siberia: Russia's North Asian Colony. Cambridge University Press. tr. 167-168. ISBN 978-0521477710.
- ^ Jordan, Bella Bychkova; Jordan-Bychkov, Terry G. (2000). Siberian Village: Land and Life in the Sakha Republic. University Of Minnesota Press. tr. 64-65. ISBN 978-0816635696.
- ^ "1.1. ОСНОВНЫЕ СОЦИАЛЬНО-ЭКОНОМИЧЕСКИЕ ПОКАЗАТЕЛИ в 2014 г." Lưu trữ 2018-09-26 tại Wayback Machine [MAIN SOCIOECONOMIC INDICATORS 2014]. Regions of Russia. Socioeconomic indicators - 2015 (in Russian). Cục Thống kê Liên bang Nga. Truy cập July 26, 2016.
- ^ Aux Etats-Unis, des centaines de villes, croulant sous leurs déchets, ne recyclent plus
- ^ New Russian Time Zones as of August 31, 2011 according to Decree 725 of the Government of the Russian Federation, World Time Zone, August 31, 2011.
- ^ [1] Lưu trữ tháng 1 3, 2007 tại Wayback Machine
- ^ Oleg Leonidovič Kryžanovskij, A Checklist of the Ground-beetles of Russia and Adjacent Lands. p. 16
- ^ "Bykovsky, Nga". Google Maps. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2020.
- ^ "NEW SIBERIAN ISLANDS NATURE RESERVE CREATED IN THE RUSSIAN ARCTIC" Lưu trữ 2020-07-02 tại Wayback Machine. WWF Russia. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
- ^ “CLIMATE Olyokminsk”. pogodaiklimat.ru. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- ^ “CLIMATE Oimjakon”. pogodaikilmat.ru. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- ^ “CLIMATE Verkhoyansk”. pogodaiklimat.ru. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- ^ “CLIMATE Yakutsk”. pogodaiklimat.ru. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- ^ Yakovleva, Natalia P. (2000). “Natural resource use in the Russian North: a case study of diamond mining in the Republic of Sakha”. Environmental Management and Health. 11 (4): 318–336. doi:10.1108/09566160010372743.
- ^ Bohlen, Celestine (1992). “Poor Region in Russia Lays Claim to Its Diamonds”. New York Times. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018.
- ^ EnglishRussia.com – Russian Roads
- ^ Cục Thống kê Quốc gia Liên bang Nga (21 tháng 5 năm 2004). “Численность населения России, субъектов Российской Федерации в составе федеральных округов, районов, городских поселений, сельских населённых пунктов – районных центров и сельских населённых пунктов с населением 3 тысячи и более человек” [Dân số Nga, các chủ thể Liên bang Nga trong thành phần các vùng liên bang, các huyện, các điểm dân cư đô thị, các điểm dân cư nông thôn—các trung tâm huyện và các điểm dân cư nông thôn với dân số từ 3 nghìn người trở lên] (XLS). Всероссийская перепись населения 2002 года [Điều tra dân số toàn Nga năm 2002] (bằng tiếng Nga).
- ^ “Всесоюзная перепись населения 1989 г. Численность наличного населения союзных и автономных республик, автономных областей и округов, краёв, областей, районов, городских поселений и сёл-райцентров” [Điều tra dân số toàn liên bang năm 1989. Dân số hiện tại của liên bang và các cộng hòa tự trị, tỉnh và vùng tự trị, krai, tỉnh, huyện, các điểm dân cư đô thị, và các làng trung tâm huyện]. Всесоюзная перепись населения 1989 года [All-Union Population Census of 1989] (bằng tiếng Nga). Институт демографии Национального исследовательского университета: Высшая школа экономики [Viện Nhân khẩu học Đại học Quốc gia: Trường Kinh tế]. 1989 – qua Demoscope Weekly.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2012.
- ^ Елена Дятлова (Yelena Dyatlova) (1 tháng 10 năm 2008). “В Якутии господствует двоеверие (Ч. 1) (Yakutia is dominated by a dual belief system)”.
Во многих случаях нам говорили, что при совершении тех или иных обрядов или просто действий приглашают сначала шамана, потом священника. Правда, именно в таком порядке, признавая христианство чем-то высшим по отношению к местной магической языческой традиции, но это соединяя. Даже среди тех представителей якутской интеллигенции, с которыми мы общались, это стремление к синкретизму было отчетливо приметно.
(An interview with Maxim Kozlov, a Moscow priest who had recently returned from a missionary trip down the Lena along with the Bishop of Yakutsk). - ^ Современная религиозная ситуация в Республике Саха (Якутия): проблемы и перспективы Часть 1. Религиозная ситуация в Республике Саха (Якутия) в период с 1990 по 2006 годы
- ^ “Михаил Ефимович НИКОЛАЕВ”. Члены Совета Федерации Федерального Собрания РФ. Government of the Sakha Republic (Yakutia). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Указ «О досрочном прекращении полномочий Главы Республики Саха (Якутия)»”. kremlin.ru (bằng tiếng Nga). 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
- ^ “Turkey seeks to institutionalize relations with Turkic republics – Today's Zaman, your gateway to Turkish daily news”. Todayszaman.com. 9 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
- ^ “Foreign Relations of the Sakha Republic (Yakutia)”. YakutiaToday.Com. 1 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2014.
- ^ Выписки ЕГРЮЛ и ЕГРИП, проверка контрагентов, ИНН и КПП организаций, реквизиты ИП и ООО. СБИС (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Institutes and faculties — NEFU”. s-vfu.ru. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2016.
- ^ Why the Film Industry Is Booming in the Russian Wilderness | Time
- ^ "The Yakut celebrate their New Year by worshiping the summer sun (PHOTOS)". rbth.com. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2020
- ^ "Platon Alexeyevich Oyunsky". Renaissance Books. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2020.
Nguồn
[sửa | sửa mã nguồn]- Верховный Совет Республики Саха (Якутия). 4 апреля 1992 г. «Конституция (основной закон) Республики Саха (Якутия)», в ред. Конституционного закона №581-З 53-IV от 22 июля 2008 г. (Supreme Council of the Sakha (Yakutia) Republic. April 4, 1992 Constitution (Basic Law) of the Sakha (Yakutia) Republic, as amended by the Constitutional Law #581-Z 53-IV of ngày 22 tháng 7 năm 2008.)
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Sakha. |
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikivoyage có cẩm nang du lịch về Cộng hòa Sakha. |
- (tiếng Nga) Official website of the government of Sakha Republic Lưu trữ 2011-02-22 tại Wayback Machine
- (tiếng Nga) Sakhalife - Live news
- (tiếng Nga) Photo gallery at the site of the Ministry of Construction of the Sakha Republic with pictures of residential buildings, schools, colleges, hospitals, theaters, stadiums, etc. constructed in Yakutia Lưu trữ 2008-04-11 tại Wayback Machine
- (tiếng Anh) (tiếng Nga) Official website of the Ministry of Foreign Relations of Sakha (in development)
- (tiếng Sakha) Orto Doydu — Samples of music, songs and video in Sakha Lưu trữ 2017-09-22 tại Wayback Machine
- (tiếng Sakha) Kyym — weekly newspaper
- (tiếng Anh) Yakutia Organized — Independent Travelogues, Photo Blogs, General Info
- (tiếng Nga) Official website of the Yakutsk State University
- (tiếng Anh) Information on Sakha from Scott Polar Research Institute
- (tiếng Nga) History of Yakutia
- (tiếng Anh) Anthem of Sakha Lưu trữ 2008-05-05 tại Wayback Machine
- (tiếng Anh) Independent Guide to the Republic of Sakha
- (tiếng Anh) Ask Yakutia
- (tiếng Anh) Today's Guide in english
- Pages using largest cities with nav class
- Cộng hòa Sakha
- Viễn Đông Nga
- Địa lý Đông Bắc Á
- Biển Laptev
- Biển Đông Siberia
- Vùng liên bang Viễn Đông
- Khởi đầu năm 1922 ở Nga
- Vùng của Bắc Cực
- Nhà nước Turk tự trị
- Thành viên Tổ chức Nhân dân và Quốc gia chưa được đại diện
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga
- Nước cộng hòa thuộc Nga
- Quốc gia và vùng lãnh thổ khởi đầu năm 1922