Luận Văn Thạc Sĩ

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 105

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUẾ

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƢỢC


CHÂU Á - THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ
DƢỚI THỜI OBAMA

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUẾ

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƢỢC


CHÂU Á - THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ
DƢỚI THỜI OBAMA

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế


Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tuấn Minh

Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Sự điều chỉnh chiến lƣợc châu Á – Thái Bình
Dƣơng của Mỹ dƣới thời Obama” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu, số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn
gốc.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Huế
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Tuấn Minh đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài
nghiên cứu của mình
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã trực tiếp
giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức trong suốt quá trình học tập tại trường
trong thời gian qua
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Ban Chủ nhiệm khoa Quốc tế học đã
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.

Xin chân thành cảm ơn!


Nguyễn Thị Huế
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 2
3. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
4. Nguồn tài liệu ................................................................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CÁC NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH CHIẾN
LƢỢC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ ................................... 8
1.1. Các nhân tố chủ quan .............................................................................. 8
1.1.1. Thúc đẩy phục hồi kinh tế Mỹ ................................................................. 8
1.1.2. Bảo đảm lợi ích và duy trì địa vị lãnh đạo của Mỹ ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương ............................................................................................. 10
1.1.3. Sự sa lầy của Mỹ trong hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan ............. 12
1.2. Các nhân tố khách quan ........................................................................ 14
1.2.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc .................................................................. 14
1.2.2. Vị thế của khu vực châu Á – Thái Bình Dương .................................... 18
1.2.3. Vấn đề tranh chấp biển đảo .................................................................. 23
1.2.4. Vấn đề an ninh phi truyền thống tại châu Á – Thái Bình Dương ......... 25
Tiểu kết ........................................................................................................... 27
CHƢƠNG 2: CHIẾN LƢỢC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ
DƢỚI THỜI OBAMA .................................................................................. 29
2.1. Mục tiêu chiến lƣợc ................................................................................ 31
2.2. Các biện pháp triển khai chiến lƣợc châu Á – Thái Bình Dƣơng của Mỹ.... 33
2.2.1. Biện pháp an ninh – quân sự................................................................. 33
2.2.2. Biện pháp kinh tế ................................................................................... 39
2.2.3. Biện pháp ngoại giao ............................................................................ 43
2.3. Đánh giá kết quả của chiến lƣợc ........................................................... 47
Tiểu kết ........................................................................................................... 60
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN LƢỢC VÀ MỘT
SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM .......................................... 61
3.1. Tác động của chiến lƣợc đến Đông Nam Á và Việt Nam ................... 61
3.1.1. Đối với Đông Nam Á ............................................................................. 61
3.1.2. Đối với Việt Nam ................................................................................... 68
3.2. Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam ............................................... 78
Tiểu kết ........................................................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADIZ Air Defense Identification Zone
Vùng nhận dạng phòng không
ADMM ASEAN Defense Minister‟s Meeting
Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN
APEC Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
ARF ASEAN Regional Forum
Diễn đàn Khu vực ASEAN
ASEAN Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
ASEM The Asia-Europe Meeting
Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu
COC The Code of Conduct in the South of China Sea
Bộ quy tắc về ứng xử ở biển Đông
DOC The Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
EAS East Asia Summit
Hội nghị cấp cao Đông Á
EU European Union
Liên minh Châu Âu
FTA Free Trade Agreements
Hiệp định thương mại tự do
GDP Gross Domestic Product
Tổng thu nhập quốc nội
GNP Gross National Product
Tổng thu nhập quốc dân
IMF International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
JSDF Japan Self Denfense Force
Lực lượng phòng vệ Nhật Bản
LMI Lower Mekong Initiative
Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong
NAFTA The North American Free Trade Agreement
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
ODA Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD The Organisation for Economic Co-operation and
Development
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
OPEC Organization of the Petroleum Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
OPIC Overseas Private Investment Corporation
Tập đoàn đầu tư tư nhân hải ngoại
OSCE Organization For Security and Cooperation in Europe
Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu
PIF Pacific Islands Forum
Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương
TIFA Trade and Investment Framework Agreement
Hiệp định khung về thương mại và Đầu tư
TPP Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
TTIP Transatlantic Trade and Investment Partnership
Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương
UNESCAP United Nations Economic and Social Commission for Asia and
the Pacific
Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên
hợp quốc
USD United States dollar
Đô la Mỹ
USTDA U.S. Trade and Development Agency
Cơ quan Phát triển và Thương mại Mỹ
WTO World Trade Organzation
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tăng trưởng kinh tế Mỹ từ năm 2006 đến năm 2008 ..................... 8
Biểu đồ 2: Tăng trưởng GDP của Mỹ theo quý và theo năm ........................... 9
Biểu đồ 3: Tăng trưởng GDP trung bình của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương năm 2013 – 2014 (%) .......................................................................... 20
Biểu đồ 4: Tổng nguồn vốn các quỹ đầu tư vốn cổ phần tại châu Á–Thái Bình
Dương tích lũy................................................................................................. 50
Biểu đồ 5: Lực lượng hải quân một số nước châu Á – Thái Bình Dương ...... 52
Biểu đồ 6: Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ qua các năm (1992-2014) ........ 70
Biểu đồ 7: Đầu tư trực tiếp Mỹ vào Việt Nam tăng 175 lần qua 20 năm ....... 71
Biểu đồ 8: Tỷ trọng đầu tư của các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam theo lĩnh vực ..... 71
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Châu Á – Thái Bình Dương có một vị trí địa – chính trị – kinh tế hết sức quan
trọng đối với Mỹ. Khu vực này tiếp giáp với nhiều đại dương, trong đó Thái Bình
Dương là cửa ngõ yết hầu nối liền Mỹ với thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã có những thay
đổi mang tính căn bản cả về chính trị và kinh tế. Hiện nay, khu vực này đang có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, và được xem là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của thế giới. Chính vì vậy cựu Ngoại trưởng Mỹ, ứng cử viên Tổng thống Mỹ 2016,
Hillary Clinton đã gọi thế kỷ XXI là “Thế kỷ của châu Á – Thái Bình Dương”.
Khi Tổng thống Obama lên nắm quyền, Mỹ đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế trầm trọng nhất trong vòng 80 năm trở lại đây, khiến cho sức mạnh
quyền lực tuyệt đối của Mỹ suy giảm đáng kể. Trong khi đó, Trung Quốc lại đang
trỗi dậy một cách mạnh mẽ, trở thành bá chủ trong khu vực, thách thức vai trò lãnh
đạo của Mỹ. Trong bối cảnh như vậy, chính quyền Obama đã phải có những bước
điều chỉnh chiến lược quan trọng hướng về châu Á – Thái Bình Dương, nhằm đảm
bảo lợi ích cốt lõi của Mỹ trong khu vực, cũng như tiếp tục duy trì vai trò ảnh
hưởng của mình đối với khu vực.
Hiện nay, Mỹ đã triển khai chiến lược “Xoay trục về châu Á – Thái Bình
Dương”, hay chiến lược “Tái cân bằng về châu Á”, trên nhiều phương diện từ ngoại
giao, kinh tế, cho đến an ninh, quốc phòng. Sự điều chỉnh chiến lược này đã, đang,
và sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp tới cục diện chính trị và kinh tế của khu vực.
Việt Nam, một quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, một chủ
thể không thể thiếu trong bàn cờ chính trị khu vực, chắc chắn cũng phải chịu ảnh
hưởng từ những thay đổi chiến lược này. Vì vậy, việc tìm hiểu về chiến lược của
Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương là hết sức cấp thiết và có ý nghĩa về
mặt lý luận cũng như thực tiễn; nhằm cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định
chính sách của Việt Nam trong việc hoạch định chiến lược đối ngoại phù hợp với
những thay đổi trong môi trường kinh tế, chính trị trong khu vực, cũng như những
xu thế phát triển của thế giới, để từ đó có những điều chỉnh kịp thời về chính sách
phù hợp cho sự phát triển của Việt Nam.

1
Xuất phát từ tình hình thực tế và nhu cầu trên, tôi quyết định chọn “Sự điều
chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời Obama” làm đề
tài luận văn cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là làm rõ “Sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ dưới thời Obama”
Để đạt được mục tiêu tổng thể trên, luận văn xác định hướng tới những mục tiêu
cụ thể sau:
 Luận giải những nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ
đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương
 Phân tích và đánh giá sự điều chỉnh chiến lược, bao gồm mục tiêu và các
biện pháp triển khai chiến lược
 Đánh giá kết quả của sự điều chỉnh chiến lược
 Đánh giá những tác động của sự điều chỉnh này đối với khu vực Đông
Nam Á và Việt Nam. Từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách cho Việt
Nam
3. Tình hình nghiên cứu
Chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một chủ đề thu
hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Do đó, có khá nhiều tài liệu đề
cập đến chiến lược này ở những mức độ và những quan điểm khác nhau, cả ở trong
nước và nước ngoài. Tuy nhiên những nghiên cứu cụ thể và toàn diện về chiến lược
này dưới thời chính quyền tổng thống Barack Obama chưa có nhiều.
Ở nước ngoài, nhắc đến chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương không thể không đề cập đến một bài viết khá công phu “Re-balancingthe
Rebalance: Resourcing U.S. Diplomatic Strategy in The Asia – Pacific Region”,
được đăng tải trên trang website http://www.foreign.senate.gov/download/us-
diplomatic-strategy-asia-pacific-region năm 2014. Công trình nghiên cứu này đã
đánh giá những diễn biến phức tạp của khu vực cũng như chính sách Mỹ với châu Á
– Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Obama. Tác giả đã đưa ra được một số
đánh giá khái quát trên một số lĩnh vực được triển khai trong chiến lược này của

2
Mỹ. Tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung vào nội dung và kết quả trên một số lĩnh vực
của chính sách, mà chưa cung cấp được cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về
những điều chỉnh mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cuốn sách “Strategic Vision: America and the crisis of global power”, tạm
dịch là “Tầm nhìn chiến lược: Mỹ và cuộc khủng hoảng toàn cầu” năm 2012 của
Zbigniew Brzezinski, là một công trình nghiên cứu công phu về đánh giá tầm nhìn
chiến lược cho tương lai của Mỹ trước sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn
cầu. Tác giả đã lý giải những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của phương Tây, sự
suy giảm vai trò của Mỹ, và sự gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc. Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra dự báo đến năm 2025 địa chính trị thế giới sẽ được cân
bằng lại. Thế mạnh của công trình nghiên cứu này nằm ở những phân tích ngắn gọn
và có sức thuyết phục về những lý do đằng sau sự suy giảm vị thế toàn cầu của Mỹ,
và những thách thức mà Mỹ đang phải đối mặt. Tác giả cũng lập luận mạnh mẽ
rằng một nước Mỹ mạnh là rất quan trọng cho sự ổn định toàn cầu trong tương lai
gần. Bằng sự hiểu biết sâu sắc của một chuyên gia về chính sách đối ngoại, đồng
thời là cựu cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, tác giả cho rằng Mỹ phải thực hiện vai trò
kép: trước hết là, khôi phục lại sự phát triển của các nước Phương Tây, thứ hai Mỹ
cần sự cân bằng và hòa giải giữa các cường quốc đang nổi lên ở phương Đông, đặc
biệt là Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Để làm điều này, tất yếu, Mỹ cần phải xử
lý tốt các vấn đề trong nước và nâng cao sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tuy
nhiên, công trình nghiên cứu này chỉ là những phân tích và đánh giá, được đưa ra
dựa trên những hiểu biết của tác giả về nước Mỹ, nghiên cứu cũng mới chỉ đưa ra
được tầm nhìn chiến lược mà chưa có những đề cập sâu sắc tới diễn biến chiến lược
của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong nhưng năm gần đây,
trong khi dưới Chính quyền của Tổng thống Obama đến nay mới là thời điểm diễn
ra nhiều biến động, định hình nên sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
Bên cạnh đó, tìm hiểu về chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương còn có bài viết khá sâu sắc của tác giả Bronson Percival, năm 2011:
“America “Return” to Asia: The South China Sea”, tạm dịch là “Mỹ “quay trở lại”

3
châu Á và vấn đề Biển Đông”. Tác giả là cố vấn cao cấp về Đông Nam Á tại Trung
tâm Nghiên cứu Chiến lược, Trung tâm Phân tích Hải quân, đồng thời là Nghiên
cứu viên cộng tác tại Trung tâm Đông – Tây. Đây cũng là một công trình nghiên
cứu hay, trong đó tác giả đã khái quát về vai trò quan trọng của khu vực châu Á –
Thái Bình Dương đối với chiến lược của Mỹ, trong đó Biển Đông là một vấn đề an
ninh có tầm quan trọng tiềm tàng nổi lên như một vị trí hàng đầu trong tính toán của
các nhà hoạch định sách lược Mỹ. Trong bài viết, tác giả đã cho thấy sự trở lại của
Mỹ ở châu Á là chủ đề được nhắc lại nhiều lần trong các tuyên bố của Chính quyền
Tổng thống Obama, bằng cách Mỹ tiếp tục thắt chặt các mối quan hệ với các đồng
minh quan trọng và tăng cường quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với các
quốc gia đang nổi lên ở châu Á như Ấn Độ và Indonesia. Tuy nhiên, bài viết chỉ tập
trung phân tích về các lợi ích của Mỹ ở Biển Đông, có đưa ra một số công cụ sách
lược của Mỹ, nhưng chủ yếu là về ngoại giao, và dự đoán về viễn cảnh việc quay
trở lại châu Á của Mỹ là không thể tránh khỏi, mà chưa mang đến cho độc giả cái
nhìn tổng quát về nguyên nhân, diễn biễn việc quay trở lại châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ, cũng như tổng thể các biện pháp Mỹ tiến hành trên nhiều lĩnh vực
khác nhau để quay trở lại khu vực này.
Ngoài ra, còn khá nhiều những tài liệu khác đề cập tới vấn đề này, nhưng đều
là những bài viết, những công trình nhỏ như: bài viết của Hillary Clinton:
“America‟s Paciffic Century”, được đăng trên tạp chí Chính sách ngoại giao, năm
2011, qua bài viết này tác giả muốn cho thấy thế kỷ XXI là thế kỷ Thái Bình Dương
của Mỹ, tương lai chính trị Mỹ sẽ được quyết định ở châu Á, chứ không phải ở
Afghanistan hay Iraq và Mỹ sẽ là nước giữ vai trò trung tâm của khu vực này; hay
bài viết: “U.S. Military and the Asia „Rebalance”, tạm dịch là “Quân đội Mỹ và tái
cân bằng khu vực châu Á”, năm 2013 của tác giả Janine Davidson, trong bài nghiên
cứu này, tác giả muốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của châu Á dưới Chính quyền
Obama, về vai trò kinh tế của khu vực, khẳng định kinh tế và cam kết ngoại giao là
cốt lõi của chiến lược tái cân bằng châu Á của Mỹ. Bên cạnh đó, bài viết cũng cho
thấy, quân đội có vai trò quan trọng hỗ trợ Mỹ thực hiện chiến lược ở khu vực châu
Á – Thái Bình Dương, nhằm đảo bảo hòa bình và ổn định trong khu vực, cho phép

4
sự phát triển kinh tế và dòng chảy tự do hoá thương mại thông suốt. Ngoài ra, còn
có những thống kê về hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Mỹ và khu vực trên các
website chính thức của chính phủ Mỹ như Whitehouse.gov và state.gov.
Ở Việt Nam, hầu như chưa có nghiên cứu nào đề cập toàn diện tới sự điều
chỉnh chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương dưới thời
Tổng thống Barack Obama. Các bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quan hệ của
Mỹ với khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung, hay chỉ là những bài nghiên
cứu trên một lĩnh vực cụ thể của Mỹ đối với khu vực này, như bài viết: “Chiến lược
an ninh châu Á –Thái Bình Dương của chính quyền Obama” đăng trên tạp chí Hòa
bình và phát triển, số 2/2010. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đi từ việc đánh giá
của chính quyền Obama đối với châu Á – Thái Bình Dương, cho đến những chính
sách, biện pháp thực hiện và ảnh hưởng của chính sách của Mỹ đến châu Á – Thái
Bình Dương. Một nghiên cứu khác có liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ
là: “Chính sách tăng cường hiện diện của Mỹ tại khu vực châu Á – Thái Bình
Dương sau năm bầu cử 2012” của Nguyễn Thái Yên Hương, đăng trên tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, số 10/2012. Trong nghiên cứu này, tác giả muốn trả lời cho câu hỏi là
sau cuộc bầu cử Tổng thống, liệu chính quyền mới có những thay đổi gì trong chính
sách an ninh của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, từ đó tác giả
muốn phân tích về cách thức chính sách đối ngoại Mỹ được hoạch định, hoặc triển
khai hay chính sách tăng cường của Mỹ đối với khu vực. Hai nghiên cứu trên, tuy
không thể hiện được nét khái quát toàn diện chiến lược của Mỹ đối với khu vực
nhưng đã tập trung phân tích trên một lĩnh vực cụ thể về an ninh hay quân sự của
Chính quyền Obama đối với khu vực này.
Bên cạnh đó, nguồn tài liệu đề cập tới những diễn biến trong quan hệ ngoại
giao, an ninh – quân sự cũng như kinh tế giữa Mỹ và khu vực rất phong phú. Ngoài
các bài viết, các công trình nghiên cứu bằng tiếng nước ngoài như đã đề cập ở trên,
các tài liệu đó còn bao gồm: những bài phân tích của các học giả nổi tiếng thế giới
được Thông tấn xã Việt Nam biên dịch và phát hành hàng ngày trong chuyên mục
tài liệu tham khảo đặc biệt, như: “Xung đột trên Biển Đông buộc Mỹ phải triển khai
chính sách trở lại châu Á – Thái Bình Dương”, được đăng tải trên số 179, phát hành

5
ngày 6/7/2013; “Châu Á – Thái Bình Dương: chiến trường mới của Mỹ”, được đăng
tải trên số 045, phát hành ngày 19/2/2013, cùng nhiều bài phân tích, nghiên cứu
khác về chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, những diễn
biến trong quan hệ của Mỹ và khu vực đăng trên các tạp chí như tạp chí Châu Mỹ
ngày này, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á hay trên
những trang web của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thông Tấn Xã Việt Nam. Đây
cũng là những tài liệu phục vụ đắc lực cho đề tài nghiên cứu luận văn.
Như vậy, cho đến nay, đề tài “Sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ dưới thời Obama” vẫn là một đề tài tương đối mới mẻ và cần thiết
bởi vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về chiến
lược, và chính sách của Mỹ đối với khu vực này trên từng lĩnh vực cụ thể. Mặc dù
có khá nhiều bài nghiên cứu liên quan đến đề tài này, song các công trình thường đi
sâu vào nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ hoặc các nhân tố chi phối chính
sách của Mỹ ở khu vực. Chính vì vậy, tác giả hy vọng luận văn sẽ đáp ứng một
phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu làm rõ chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu
Á – Thái Bình Dương và tác động của chiến lược này tới Việt Nam.
4. Nguồn tài liệu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp từ nhiều nguồn
tài liệu khác nhau, bao gồm: sách, báo, tạp chí (tạp chí Châu Mỹ ngày nay, tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, tạp chí Nghiên cứu
quốc tế, tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam...), các văn kiện của
Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các công trình nghiên cứu của các học giả
trong và ngoài nước, các website, các báo cáo, số liệu thống kê chính thức của các
nước trong khu vực, một số bài phát biểu của Tổng thống Barack Obama và các
ngoại trưởng Mỹ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo được dùng để nghiên cứu đề tài này là phương
pháp phân tích chính sách, phương pháp nghiên cứu khu vực, phương pháp nghiên cứu
lịch sử, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp.

6
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng
Luận văn tập trung vào nghiên cứu sự điều chỉnh chiến lược đối với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời Obama, qua đó để thấy được những
điểm mới trong chiến lược chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái Bình
Dương của Obama so với những người tiềm nhiệm.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu mối tương tác giữa Mỹ và châu Á – Thái Bình
Dương. Cụ thể, về phạm vi thời gian, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu trong giai đoạn
dưới thời Tổng thống Barack Obama (từ năm 2008 đến nay). Về phạm vi không
gian ở khu vực châu Á –Thái Bình Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:
 Chƣơng 1. Các nhân tố dẫn đến sự điều chỉnh chiến lƣợc châu Á – Thái
Bình Dƣơng của Mỹ: Chương này phân tích một cách khái quát các nhân tố
chủ quan và khách quan có tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự điều chỉnh
chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời Tổng thống Barack
Obama
 Chƣơng 2. Sự điều chỉnh chiến lƣợc châu Á – Thái Bình Dƣơng của Mỹ
dƣới thời Obama: Chương này tập trung trình bày mục tiêu chiến lược,
phân tích các biện pháp triển khai chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của
Mỹ trên các lĩnh vực an ninh – quân sự, kinh tế và ngoại giao. Đồng thời, từ
những mục tiêu mà Mỹ đặt ra trong chiến lược này, chương II đã đưa ra
những đánh giá kết quả của chiến lược trên cả ba lĩnh vực kể trên.
 Chƣơng 3. Tác động của điều chỉnh chiến lƣợc và một số hàm ý chính sách
cho Việt Nam: Chương này đã đánh giá những tác động của sự điều chỉnh
chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ đến Đông Nam Á và Việt Nam.
Từ đó, đưa ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam nhằm đảm bảo an ninh
quốc gia, giữ vững chủ quyền dân tộc và phát triển kinh tế bền vững.

7
CHƢƠNG 1: CÁC NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƢỢC
CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ
1.1. Các nhân tố chủ quan
1.1.1. Thúc đẩy phục hồi kinh tế Mỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi
tệ nhất trong vòng 80 năm qua, đã để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế
Mỹ. Cũng như làm suy yếu vị thế của Mỹ trên trường quốc tế. Nước Mỹ đang dần
mất đi vai trò bá chủ toàn cầu của mình.
Trong khi Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nền kinh tế khác đặc biệt ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương đang vươn lên mạnh mẽ thì Mỹ lại là tâm điểm của
cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công của nền kinh
tế số một thế giới. Năm 2008, tỷ lệ nợ công của Mỹ cao tới mức báo động lên tới
13.000 tỷ USD (bằng gần 90% GDP của cả nước Mỹ), kinh tế đình trệ (tăng trưởng
âm vào năm 2009), tỷ lệ thất nghiệp cao (gần 10% vào năm 2009 và 2010). Khi
Tổng thống Barack Obama mới nhận chức thì cứ 10 người Mỹ lại có 1 người không
công ăn việc làm. Như vậy có thể thấy tình trạng thất nghiệp của Mỹ đang ở mức
báo động [6]. Tất cả những điều nói trên cho thấy gánh nặng mà chính quyền Mỹ
đang phải đối mặt là rất lớn.
Biểu đồ 1: Tăng trƣởng kinh tế Mỹ từ năm 2006 đến năm 2008

(Nguồn: Commerce Department)

8
Biểu đồ 2: Tăng trƣởng GDP của Mỹ theo quý và theo năm

(Nguồn: bea.gov)
Cuộc khủng hoảng đã làm cho tốc độ phát triển kinh tế của nước Mỹ bị thụt
lùi so với nhiều nền kinh tế mới nổi khác, vị thế chính trị và niềm tin trong dư luận
giảm sút. Hiện nay, kinh tế Mỹ đã phục hồi. Tuy nhiên để khắc phục hoàn toàn
được những hậu quả của cuộc khủng hoảng cũng như phát triển bền vững không
phải là việc làm một sớm một chiều. Sự khó khăn về kinh tế đã gây sức ép nặng nề
cho chính phủ Mỹ trong việc hợp lý các khoản chi tiêu công, đặc biệt là ngân sách
dành cho quốc phòng buộc phải cắt giảm để tập trung phát triển kinh tế. Bởi lẽ sức
mạnh kinh tế sẽ chi phối sức mạnh chính trị và an ninh. Những hậu quả đó đã có
những ảnh hưởng to lớn đến sự điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của
chính quyền Mỹ.
Kinh tế châu Á ngày càng ảnh hưởng tới tương lai kinh tế thế giới nói chung
và kinh tế Mỹ nói riêng. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và kinh tế Mỹ ảm đạm,
khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang nổi lên như một thị trường mà Mỹ có thể
thúc đẩy phát triển và giúp phục hồi kinh tế Mỹ. Chính vì sự chững lại và suy yếu
của các quốc gia phát triển (trong đó có Mỹ và các đồng minh của Mỹ) trong cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với việc những quốc gia, khu vực đang phát
triển mới nổi đều muốn có một vị thế chính trị xứng đáng hơn so với sức mạnh kinh
tế của mình, đã đẩy nhanh của sự dịch chuyển và phân tán quyền lực trên phạm vi
toàn cầu: dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, từ Đại Tây Dương sang Thái

9
Bình Dương; quyền lực phân tán trải khắp các khu vực, châu Âu, Trung Đông –
Bắc Phi, Mỹ La-tinh, châu Phi, châu Á – Thái Bình Dương… Trong đó, vị thế trung
tâm quyền lực châu Âu bị suy yếu, còn khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày
càng đóng vai trò nổi bật trong chính trị, kinh tế, an ninh toàn cầu. Do đó chính
quyền Obama đã và đang có những điều chỉnh chiến lược nhằm mục tiêu trước mắt
và lâu dài là phát triển kinh tế và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của mình.
1.1.2. Bảo đảm lợi ích và duy trì địa vị lãnh đạo của Mỹ ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương
Sự biến đổi của hệ thống quốc tế là một trong những nguyên nhân quan trọng
hàng đầu dẫn tới sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống
Barack Obama, mà theo đó trọng tâm chiến lược là khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Hệ thống quốc tế đã và đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và đa
dạng. Điều này được thể hiện ở sự thay đổi trong cục diện quốc tế – tình hình thế
giới, các mối quan hệ quốc tế biểu hiện trong một giai đoạn lịch sử nhất định và kéo
theo đó là sự biến đổi trên bình diện Trật tự thế giới – kết cấu quyền lực, vị thế, vai
trò của các chủ thể và mối liên hệ giữa các chủ thể đó trong quan hệ quốc tế xét ở
một giai đoạn lịch sử tương đối dài.
Năm 1991, Liên Bang Xô Viết sụp đổ đem đến hệ quả là sự kết thúc của chiến
tranh Lạnh và trật tự thế giới hai cực chấm dứt. Từ năm 1991 đến năm 2003 (thời
điểm Mỹ tấn công Iraq) có thể được nhìn nhận như khoảng thời gian đơn cực ngắn
ngủi của nước Mỹ. Trên thế giới thời điểm bấy giờ, không quốc gia nào có được vị
thế ngang bằng hay có thể thách thức vị thế của Mỹ. Những vấn đề chính trị và kinh
tế – xã hội đã đẩy nước Nga, nước kế thừa chính của Liên Xô, vào sự khủng hoảng
triền miên trong suốt những năm 1990 và bị các cường quốc khác bỏ lại khá xa về
khoảng cách phát triển. Nước Nhật là cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới
nhưng chỉ được ví như “chú lùn về chính trị” và không có được sự tự chủ về an ninh
quốc phòng khi phải chấp nhận núp dưới chiếc ô hạt nhân của Mỹ. Trung Quốc
trong giai đoạn này thực thi chính sách “ẩn mình chờ thời” nhằm tìm kiếm một môi
trường hòa bình cho sự phát triển kinh tế nên luôn giữ thái độ khá ôn hòa trong các
vấn đề quốc tế, chưa trở thành mối đe dọa hiện hữu đối với Mỹ. Việc Mỹ phát động

10
cuộc chiến Afghanistan (2001) và Iraq (2003) gần như không gặp phải sự phản đối
đáng kể nào càng cho thấy sự lấn lướt của Mỹ đối với các chủ thể còn lại trong quan
hệ quốc tế.
Tuy nhiên, trong khi Mỹ đẩy mạnh các hành động đơn phương nhằm hướng
tới việc thiết lập một trật tự thế giới đơn cực với sự thống trị của Mỹ thì những thay
đổi nhanh chóng của cục diện thế giới đã tác động không nhỏ tới vị thế của nước
này trong quan hệ quốc tế. Mỹ tuy vẫn giữ được vị thế quốc gia quyền lực số một
thế giới nhưng quyền lực này đã và đang có sự suy giảm tương đối so với các cường
quốc khác.
Xu hướng hợp tác đa phương hóa, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ khiến cho
tính cạnh tranh và ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một lớn hơn. Mỹ tuy
là cường quốc đứng đầu thế giới, được hưởng lợi nhưng cũng chịu tác động không
nhỏ từ các xu hướng đó. Lợi ích của Mỹ trên cả ba phương diện kinh tế, chính trị,
an ninh bị chi phối, lệ thuộc nhiều hơn trong những mối quan hệ đan xen với các
quốc gia, tổ chức khác. Nhiều quốc gia đã tận dụng việc mở cửa thị trường, tự do
lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh sự tăng trưởng vươn lên cạnh tranh trực tiếp với Mỹ.
Bên cạnh những tổ chức kinh tế, chính trị mà Mỹ khởi xướng và chi phối (WTO,
IMF, NAFTA, Liên Hợp Quốc…), sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức liên kết
kinh tế, chính trị khu vực như EU, ASEAN, OPEC… ngày càng có tiếng nói độc
lập với Mỹ và vươn lên khẳng định vai trò, vị trí của mình trong việc tham gia
hoạch định và giải quyết các vấn đề có liên quan đến vận mệnh chung của khu vực
và thế giới.
Như vậy, đánh giá một cách tổng thể khi nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống
George.W.Bush kết thúc là lúc vị thế siêu cường lãnh đạo toàn cầu của Mỹ bị thách
thức nghiêm trọng. Những thay đổi của cục diện quốc tế đã dần định hình một trật
tự thế giới đa cực, hay nhất siêu đa cường. Sự yếu đi tương đối của nước Mỹ cùng
với các đồng minh châu Âu truyền thống thúc đẩy nước Mỹ dưới thời Tổng thống
Barack Obama phải lựa chọn một hướng đi mới trong chiến lược toàn cầu. Trong
đó, khu vực châu Á – Thái Bình Dương được Chính quyền Obama chọn làm một
trong những trọng tâm trong chiến lược toàn cầu của mình.

11
Sự lựa chọn châu Á – Thái Bình Dương làm trọng tâm chiến lược phản ánh
những toan tính lâu dài của Mỹ. Trong các khu vực được coi là có ý nghĩa chiến
lược với Mỹ: châu Âu, Trung Đông – Bắc Phi, Mỹ La-tinh, châu Á – Thái Bình
Dương, tùy vào diễn biến của tình hình cụ thể và lợi ích thu được mà Mỹ lựa chọn
đâu là khu vực ưu tiên. Trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, nước Mỹ dồn sự tập trung vào châu Âu, đấu trường chính của chiến
tranh Lạnh. Thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, nước Mỹ lại phải hướng sự chú ý
của mình vào chảo lửa Trung Đông. Châu Âu, Trung Đông – Bắc Phi, Mỹ La-tinh
hiện nay chưa hẳn đã thoát khỏi những rắc rối. Cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng
đang đặt ra những thách thức to lớn đối với tính bền vững của Liên minh châu Âu;
tình hình Trung Đông – Bắc Phi vẫn rất phức tạp với các vấn đề hạt nhân Iran, tranh
chấp lãnh thổ Israel và Palestine, bạo lực kéo dài ở Syria... hay phong trào cánh tả
đang lên ở khu vực Mỹ La-tinh sẽ tiếp tục là mối bận tâm của Mỹ trong tương lai.
Tuy nhiên, nhìn chung, tình hình thế giới có những hoàn cảnh thuận lợi cho phép
Mỹ có thể tập trung ưu tiên vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
1.1.3. Sự sa lầy của Mỹ trong hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan
Mỹ không chỉ phải gồng mình để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ trầm trọng ở trong nước mà Mỹ còn bị sa lầy trong hai cuộc chiến tranh hao
tốn sức người sức của ở Iraq và Afghanistan. Cùng với đó là sự bế tắc trong việc
giải quyết các điểm nóng như vấn đề hạt nhân của Iran, Triều Tiên, xung đột Israel
và Palestine…
Ngay sau vụ tấn công khủng bố kinh hoàng ngày 11/9/2001, Mỹ và liên quân
đã mở cuộc tấn công tiêu diệt các phần tử Taliban tại Afghanistan. Cuộc chiến tranh
với lý do nhằm tiêu diệt các nhóm khủng bố, đảm bảo an ninh cho nước Mỹ và thế
giới đã gây ra sự chết chóc đau thương cho hàng ngàn người dân vô tội, kinh tế suy
giảm và mở đầu cho một thời kỳ bất ổn mới tại đây, những cuộc bạo động chính trị
và làn sóng phản đối giới cầm quyền liên tục diễn ra tại Trung Đông và Nam Á.
Đồng thời cuộc chiến tranh này cũng làm hao tổn sức người sức của của quân đội
Mỹ. Làn sóng phản đối chính quyền diễn ra ngay trong lòng nước Mỹ.

12
Thế nhưng, không lâu sau đó, vào tháng 3/2003, lấy cớ tìm kiếm vũ khí hủy
diệt hàng loạt, liên quân do Mỹ đứng đầu với sự áp đảo về lực lượng và vũ khí công
nghệ cao, đã tiến thẳng vào thủ đô Baghdad, lật đổ chế độ của Tổng thống Saddam
Hussein. Sai lầm lần này dường như lớn hơn rất nhiều bởi hậu quả mà nó để lại thực
sự đang trở thành gánh nặng đè lên vai nước Mỹ.
Sự sa lầy trong hai cuộc chiến đó đã làm tiêu hao đáng kể các nguồn lực, làm
suy yếu sức mạnh của nước Mỹ. Theo tạp chí Newsweek ra ngày 30/6/2011, số tiền
nước Mỹ phải chi ra để trang trải cho các cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq tổng
cộng là 1,6 nghìn tỷ USD, và chắc chắn đó chưa phải con số cuối cùng. Kể từ thời
điểm xảy ra cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 cho đến hết tháng 9/2014,
Quốc hội Mỹ đã phân bổ 815 tỷ USD vào cuộc chiến ở Iraq; 686 tỷ USD cho hoạt
động quân sự tại Afghanistan và hàng loạt chiến dịch chống khủng bố; 81 tỷ USD
chi phí khác trực tiếp gắn liền với hoạt động chiến sự; 27 tỷ USD là tài trợ cho
chương trình của không quân Mỹ tuần tiễu trên lãnh thổ Mỹ. Và tổng chi cho mua
sắm vũ khí, sửa chữa, bão dưỡng trang thiết bị chiến tranh rơi vào khoảng 297 tỷ
USD. Về người, cuộc chiến ở Iraq đã cướp đi mạng sống của 4.491 lính Mỹ và làm
hơn 32.000 người khác bị thương. Tại Afghanistan, số lính Mỹ thiệt mạng là 2.356
người và hơn 20.000 người bị thương [53].
Ngoài ra, có khoảng 128.496 quân nhân Mỹ bị mắc các di chứng hậu chiến
tranh đang tạo ra gánh nặng không nhỏ cho ngân sách an sinh xã hội nước này [53].
Nếu như khi mới phát động cuộc chiến, nước Mỹ tỏ ra vượt trội hơn hẳn so với các
quốc gia còn lại và phản ứng của các nước như Nga, Trung Quốc, Iran lúc bấy giờ
theo hướng tăng cường đầu tư vào phát triển quân sự phòng thủ được hiểu là nhằm
cố gắng cân bằng lại sức mạnh và kìm chế sự đơn phương của Mỹ thì sự sa lầy của
Mỹ tại cuộc chiến Afghanistan và Iraq thực sự là một cơ hội để họ vươn lên khẳng
định vị thế của mình. Khi mà nước Mỹ bị kìm hãm, sa sút về nguồn lực và trở nên
bất lực trước những vấn đề nghiêm trọng trong nước và thế giới thì việc nước này
phải bắt tay hợp tác nhiều hơn với các cường quốc khác là điều tất yếu. Chính
quyền Mỹ cũng phải thừa nhận, một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng kinh tế là do sa lầy trong cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Vì vậy, quyền lực
của nước Mỹ trong trật tự thế giới ngày càng bị chia sẻ và suy giảm.

13
Cuộc chiến Iraq kết thúc và quá trình chuyển giao lực lượng an ninh
Afghanistan từ lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế, sang chính quyền địa phương đánh
dấu việc giảm dần sự hiện diện của Mỹ ở đây, đã tạo điều kiện cho việc bố trí nguồn
lực sang các khu vực khác và đặc biệt cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
1.2. Các nhân tố khách quan
1.2.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
Năm 1905, vị tổng thống thứ 26 của nước Mỹ Theodore Roosevelt đã tiên
đoán rằng: “Lịch sử tương lai của chúng ta (Mỹ) sẽ được quyết định bởi vị thế của
chúng ta ở Thái Bình Dương đối mặt với Trung Quốc hơn là vị thế của chúng ta ở
Đại Tây Dương trực diện với châu Âu” [93]. Và quả thực, lịch sử nước Mỹ đang
chứng kiến những điều được dự đoán cách đây cả thế kỷ. Nếu như quan hệ song
phương giữa Mỹ – Liên Xô chi phối thế giới suốt thời kỳ trước và trong chiến tranh
Lạnh thì hiện tại mối quan hệ Mỹ – Trung mang yếu tố quyết định tới tình hình kinh
tế, chính trị và an ninh toàn cầu.
Tầm quan trọng của mối quan hệ Mỹ – Trung đối với thế giới được nâng lên
bởi vị thế gia tăng nhanh chóng của Trung Quốc ngày nay so với thời điểm họ bắt
đầu cải cách mở cửa năm 1978. Trung Quốc đã từng là quốc gia mạnh bậc nhất thế
giới, là trung tâm của Phương Đông thời kỳ phong kiến cực thịnh. Tuy nhiên, họ đã
đánh mất vị thế của mình khi mà chế độ phong kiến thoái trào, trở nên lạc hậu và có
sự xâm nhập của Phương Tây. Nhưng hiện nay, thế giới đang chứng kiến sự trỗi
dậy đầy mạnh mẽ của Trung Quốc cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Xét bối cảnh
toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau. Nước Mỹ được
hưởng lợi từ sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc nhưng đồng thời cũng phải
đối mặt với những thách thức mà sự phát triển ấy mang lại. Trong đó, các thách
thức ngày càng lớn khiến nước Mỹ không khỏi lo lắng về khả năng duy trì vị trí
lãnh đạo thế giới của mình.
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế là nhân tố cơ bản thúc đẩy sự nổi lên của
Trung Quốc như một đại cường quốc. Theo số liệu mà Cục thống kê quốc gia Trung
Quốc công bố, giai đoạn từ năm 1989 tới năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP hằng
năm của Trung Quốc trung bình đạt 9.23% và dự kiến tốc độ tăng trưởng 6,9% năm

14
2015 [48]. Sự tăng trưởng cao và liên tục đã đưa nước này vượt qua Nhật Bản trở
thành nền kinh tế lớn số hai thế giới (xét về GDP) năm 2010 và rất có thể sẽ vượt
Mỹ trở thành nền kinh tế hàng đầu thế trong tương lai không xa.
Sự phát triển về kinh tế kết hợp cùng với những tiến bộ trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ cho phép Trung Quốc tiến hành những hoạt động hiện đại hóa
quân đội một cách toàn diện. Trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, phạm vi và tốc độ
của quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc đã được tăng lên nhanh chóng.
Theo dự toán ngân sách quốc phòng của Trung Quốc trong năm 2015 sẽ đạt mức
144 tỷ USD, tăng 10,1% so với năm ngoái, Tính trung bình mức tăng chi phí quân
sự hàng năm của Trung Quốc vào khoảng 19% [52]. Quốc gia này hiện đang có
mức chi tiêu quân sự lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề thiếu
minh bạch trong việc công khai ngân sách chi tiêu quân sự của Trung Quốc dẫn
đến nhiều nhận định cho rằng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc còn tăng
nhanh hơn nhiều so với những gì nước này công bố. Thực tế, chi tiêu quân sự
của Trung Quốc được cho là lớn hơn dự toán công khai từ 40% đến 55%. Năm
2014 chi tiêu quân sự thực tế của nước này đạt mức 148 tỷ USD, trong khi con số
công bố chỉ có hơn 130 tỷ USD [52].
Ngay từ những năm đầu tiên của thế kỉ XXI, Trung Quốc đã chú trọng đến
việc mở rộng vai trò của Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc ra bên ngoài
lãnh thổ Trung Quốc. Quân đội nước này đã tích cực tham gia vào một số hoạt động
gìn giữ hòa bình quốc tế, ứng cứu thiên tai, hỗ trợ nhân đạo và chống cướp biển.
Mặt khác, Trung Quốc đẩy mạnh việc mở rộng phạm vi triển khai sức mạnh quân
sự trên biển và thi hành chiến lược chống tiếp cận và chống thâm nhập để đẩy các
lực lượng hải quân đối thủ ra xa khỏi vùng biển Tây Thái Bình Dương tiến tới kiểm
soát các vùng biển chiến lược.
Quá trình mở rộng các hoạt động quân sự của Trung Quốc ra các khu vực biển
xa hơn đã được giới chức lãnh đạo nước này giải thích là một chính sách mang tính
phòng thủ quốc gia và phù hợp với chính sách phát triển hòa bình của Trung Quốc,
không nhằm đe dọa quốc gia nào. Tuy nhiên, cách thức mà Trung Quốc đang thực
hiện nhằm đảm bảo an ninh cho mình không khỏi khiến Mỹ và các nước trong khu
vực phải lo ngại.

15
Những năm gần đây, song song với việc duy trì khả năng răn đe hạt nhân chiến
lược, sự cải thiện năng lực tác chiến tấn công mạng máy tính, Trung Quốc đã đẩy
nhanh việc mua và tự nghiên cứu sản xuất số lượng lớn các loại vũ khí có tầm hoạt
động rộng hơn như các loại máy bay chiến đấu tối tân, tên lửa đạn đạo tầm trung
tiên tiến, tên lửa hành trình, tên lửa liên lục địa và tàu ngầm tấn công loại mới được
trang bị vũ khí hiện đại; theo đuổi việc chương trình chế tạo tàu sân bay; phát triển
hệ thống phòng không tầm xa, hệ thống truy cập không gian… Các căn cứ quân sự
duyên hải được tăng cường đặc biệt là căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam cho phép
hải quân Trung Quốc tiếp cận trực tiếp các tuyến đường biển quốc tế có ý nghĩa
sống còn và triển khai các hoạt động của tàu ngầm tại Biển Đông. Phạm vi hoạt
động của hải quân Mỹ – lực lượng đã đóng góp rất lớn vào việc tạo ra ưu thế và duy
trì ưu thế vượt trội cho nước Mỹ trong nhiều thập kỷ qua đứng trước nguy cơ bị thu
hẹp và không có khả năng kiểm soát vùng biển Tây Thái Bình Dương. Các loại tên
lửa tầm trung và tầm xa có độ chính xác cao và có khả năng mang đầu đạn hạt nhân
được Trung Quốc đưa vào sử dụng làm cho sức tấn công (cả bằng đầu đạn thường
và đầu đạn hạt nhân) của quân đội mạnh lên rất nhiều. Hệ quả là Mỹ không chỉ gặp
khó trong việc duy trì các cam kết bảo vệ đồng minh của mình trong khu vực, mà
mức độ dễ bị tổn thương của các lực lượng Mỹ đóng quân tại khu vực Thái Bình
Dương hay thậm chí là lãnh thổ nằm sâu trong lục địa của Mỹ cũng tăng lên.
Trong vấn đề Đài Loan, giới lãnh đạo Trung Quốc luôn coi Đài Loan là một
phần lãnh thổ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do đó, luôn tìm cách ngăn
chặn Đài Loan độc lập và hướng tới việc tái thống nhất Đài Loan với Trung Quốc
lục địa trong đó việc sử dụng sức mạnh quân sự không được loại trừ. Thực tế thì
trong một thời gian dài, quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc không ngừng
gia tăng sức ép, tạo thế trận bao vây đối với Đài Loan đồng thời vạch ra các biện
pháp để có thể ngăn chặn, trì hoãn và chống lại bất kỳ sự hỗ trợ nào của Mỹ cho Đài
Loan trong trường hợp xung đột. Sự cân bằng của các lực lượng quân sự tại eo biển
Đài Loan tiếp tục thay đổi theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Điều đó có thể đẩy
Mỹ sẽ phải nhượng bộ Trung Quốc trong vấn đề liên quan đến Đài Loan. Sự lớn
mạnh về quân sự Trung Quốc được thúc đẩy từ sự phát triển của kinh tế nhưng

16
ngược lại nó cũng tạo ra nhiều lợi thế trong các hoạt động ngoại giao và cho phép
Trung Quốc có nhiều lựa chọn hơn trong việc giải quyết các tranh chấp xung đột
theo hướng có lợi hơn cho mình.
Trong quan hệ khu vực và quốc tế, Trung Quốc đã và đang có những điều
chỉnh đáng kể. Sự phát triển của các nguồn lực sức mạnh nội tại, nhu cầu về năng
lượng và sự suy yếu của Mỹ đã khuyến khích Trung Quốc có những động thái mạnh
bạo, quả quyết hơn trong việc khẳng định vị thế cũng như mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của mình. Trung Quốc thi hành đường lối đối ngoại cứng rắn hơn trong việc
khẳng định và bảo vệ các yêu sách về chủ quyền, nhất là chủ quyền biển đảo đối với
khu vực Biển Đông và Hoa Đông. Thông qua các hoạt động kinh tế (đầu tư, viện
trợ, cho vay vốn, xuất khẩu hàng hóa), Trung Quốc từng bước can dự sâu hơn vào
các nước khu vực Đông Nam Á, lôi kéo các nước này vào quỹ đạo ảnh hưởng của
Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn đẩy mạnh mở rộng ảnh hưởng thông qua
ngoại giao văn hóa và giáo dục. Theo các số liệu thống kê, số lượng sinh viên nước
ngoài học tập tại Trung Quốc ngày càng tăng lên, hàng trăm viện Khổng tử học và
trường dạy Hán ngữ được mở ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Như vậy, đánh giá một cách tổng quát, Trung Quốc hiện là quốc gia có dân số
đông nhất thế giới, nền kinh tế đứng thứ hai toàn cầu, có một lực lượng quân sự
hùng mạnh và các giá trị văn hóa đang được truyền bá rộng khắp. Vượt qua tất cả
các quốc gia khác trong tương quan về sức mạnh, Trung Quốc nổi lên là quốc gia có
tiềm lực nhất trong việc cạnh tranh vị thế và ảnh hưởng với Mỹ và thách thức lớn
nhất đối với trật tự khu vực và thế giới mà hiện Mỹ đang chi phối. Nước Mỹ không
thể không lo ngại trước “mối đe dọa Trung Quốc” đang tăng lên. Và do đó, mặc dù
không được Chính quyền Obama thừa nhận công khai nhưng các quan điểm cho
rằng việc chọn châu Á –Thái Bình Dương một phần quan trọng là nhằm kiềm chế
sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là không có cơ sở.

17
1.2.2. Vị thế của khu vực châu Á – Thái Bình Dương

Châu Á – Thái Bình Dương1 bao gồm hai tiểu khu vực là Đông Bắc Á và
Đông Nam Á, có vai trò ngày càng quan trọng về an ninh, chính trị và kinh tế so với
các khu vực khác trên thế giới. Tồn tại một thời gian dài, lịch sử châu Á – Thái
Bình Dương gắn liền với sự chi phối của sức mạnh kinh tế và quân sự vượt trội của
Mỹ. Ba cuộc chiến lớn của Mỹ từng được tiến hành tại đây: cuộc chiến Thái Bình
Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh
Việt Nam. Một mạng lưới đồng minh và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Á đã được
thiết lập cùng với thời gian bắt đầu chiến tranh Lạnh và vẫn duy trì tồn tại đến hiện
nay. Nhưng sau sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ đã không có sự quan tâm đúng mức tới
khu vực này. Trong khi đó, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu
vực này tăng lên nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Mọi xu hướng
địa – chính trị, kinh tế và quân sự đang đổ về châu Á – Thái Bình Dương, đưa khu
vực này dần trở thành trung tâm quyền lực quan trọng của thế giới trong thế kỷ
XXI.
Thứ nhất, về khía cạnh chính trị, trong cục diện quốc tế, chưa bao giờ khu
vực châu Á –Thái Bình Dương có được vị thế to lớn và quan trọng như trong những
năm gần đây. Khu vực này chiếm tới 40% diện tích, hơn 1/2 tổng dân số của thế
1
Phạm vi khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong đề cập của luận văn gồm hai khu vực chính là Đông Bắc
Á và Đông Nam Á

18
giới và tập trung rất nhiều tuyến đường biển quốc tế quan trọng [51]. Châu Á – Thái
Bình Dương tập hợp hầu hết trung tâm quyền lực lớn nhất thế giới hiện nay là Mỹ,
Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Mối quan hệ giữa các cường quốc trong khu
vực được xây dựng trên cơ sở vừa hợp tác, thúc đẩy, đồng thời vừa kiềm chế đối
trọng lẫn nhau, và có ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Sự cạnh tranh quyền lực, va
chạm lợi ích, và quá trình tập hợp lực lượng trong khu vực diễn ra phức tạp và
quyết liệt. Sự phân cực giữa nhóm những nước đồng minh, đối tác của Mỹ và nhóm
những nước nổi lên là đối thủ của Mỹ vẫn tiếp tục diễn ra, tuy nhiên ranh giới giữa
đối tác và đối thủ là không hoàn toàn rõ ràng trong nhiều trường hợp và lĩnh vực.
Thứ hai, về khía cạnh kinh tế, khu vực châu Á – Thái Bình Dương chiếm một
vai trò nổi bật, có khả năng chi phối kinh tế toàn cầu. Khu vực này hiện chiếm tới
gần 58% GDP, hơn 50% lượng hàng hóa xuất khẩu, 48% nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, 47% giao dịch thương mại quốc tế mỗi năm và quan trọng hơn, khu
vực này còn tập trung tới 65% nguồn nguyên liệu toàn cầu và chiếm 2/3 tổng lượng
dự trữ ngoại hối toàn thế giới. Dự kiến đến năm 2015, các nước Đông Á sẽ vượt
Bắc Mỹ và khu vực châu Âu để trở thành khu vực thương mại lớn nhất thế giới
[51]. Đây cũng là khu vực có sự phát triển kinh tế nhanh và sôi động bậc nhất thế
giới. Theo báo cáo triển vọng kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương của IMF,
dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm
2015 sẽ giữ ở mức 5,6%, năm 2016 sẽ giảm nhẹ xuống còn 5,5% [68]. Sự tăng
trưởng này luôn cao hơn mức bình quân chung của thế giới, thúc đẩy nền kinh tế
toàn cầu đi lên.

19
Biểu đồ 3: Tăng trƣởng GDP trung bình của khu vực châu Á – Thái Bình
Dƣơng năm 2013 – 2014 (%)

(Nguồn: IMF: Clarkson Research Srevices)


Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu năm
2008 và còn đang tiếp diễn ảnh hưởng sâu sắc tới hầu khắp các quốc gia và khu
vực, kinh tế châu Á – Thái Bình Dương nổi lên như là điểm tựa và động lực của nền
kinh tế thế giới. Khu vực này không nằm ngoài sự ảnh hưởng từ những diễn biến
xấu chung của nền kinh tế thế giới và các các khu vực khác khi mà tốc độ tăng
trưởng có phần chậm lại. Tuy nhiên, châu Á – Thái Bình Dương vẫn là khu vực có
được tốc độ tăng trưởng và sự phục hồi khả quan nhanh nhất trên thế giới. Sự tăng
trưởng chung của khu vực trong tương lai sẽ tiếp tục được duy trì nhờ nhu cầu nội
địa và thương mại nội khối tăng giúp bù đắp sự suy giảm xuất khẩu sang các nền
kinh tế phát triển. Sự tăng trưởng của khu vực giúp cân bằng và thúc đẩy sự phục
hồi của nền kinh tế thế giới đồng thời giúp cho các khu vực đang phát triển khác
như Mỹ La-tinh và châu Phi giảm sự phụ thuộc vào các nền kinh tế phát triển đang
trì trệ. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở vị thế hiện tại, khu vực châu Á – Thái Bình
Dương đang dần khẳng định vai trò của một đầu tàu kinh tế thế giới. Dân số đông
tạo nên một thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn, với lực lượng nhân công dồi dào và
đầy tiềm năng.

20
Trong khi đó, xét về khía cạnh quy mô kinh tế, theo sự đánh giá của cựu Thủ
tướng Singapore Lý Quang Diệu, GNP của Đông Á theo sức mua ngang giá sẽ đạt
34.000 tỷ USD năm 2020 (tức chiếm 40% GNP của thế giới) vượt qua GNP của
Bắc Mỹ (16.000 tỷ USD-18%) và 15 nước EU (12.000 tỷ USD-14%). Năm 2050, tỷ
trọng kinh tế của ba khu vực Đông Á, Bắc Mỹ và EU trong nền kinh tế thế giới sẽ
lần lượt là 42%; 15% và 10% [47]. Sự phát triển hiện tại cũng như vai trò tiềm năng
kinh tế trong tương của châu Á – Thái Bình Dương đang thu hút sự chú ý của nhiều
quốc gia và tổ chức. Liên Minh châu Âu, Nga, Nhật Bản xem đây là khu vực có thể
giúp họ khắc phục các vấn đề kinh tế đang tồn tại và là đối tác hợp tác quan trọng
trong tương lai.
Kinh tế Mỹ ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Khu vực này đóng góp tới 60 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ hằng
năm với giá trị thương mại lên tới 1000 tỷ USD [47]. Việc Mỹ lựa chọn châu Á làm
trọng tâm chiến lược là có sự thúc đẩy lớn từ lợi ích kinh tế. Nước Mỹ cần một nền
kinh tế đủ mạnh để duy trì sức mạnh chính trị và quân sự có thể lãnh đạo thế giới.
Với vị trí của một quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nước
Mỹ hiểu rõ tầm quan trọng của khu vực này và không muốn bị coi là “kẻ chậm
chân” trong việc khai thác các tiềm năng kinh tế khu vực. Sự tăng cường hợp tác,
can dự vào nơi được coi là có nền kinh tế phát triển sôi động nhất hiện nay và là
trung tâm thương mại lớn nhất toàn cầu tương lai sẽ là giải pháp giúp Mỹ vượt qua
được những vấn đề nội tại nan giải như tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ, nợ
công trầm trọng, thất nghiệp tăng cao, buộc nước này phải thắt chặt chi tiêu chính
phủ trong đó gần 500 tỷ USD ngân sách quốc phòng sẽ bị cắt giảm trong mười năm
tới. Đồng thời, qua sự can dự kinh tế, Mỹ có thể củng cố và mở rộng ảnh hưởng của
mình đối với khu vực này và quốc tế.
Thứ ba, về khía cạnh quân sự, điều quyết định đến sự điều chỉnh chiến lược
về châu Á – Thái Bình Dương của Chính quyền Obama là khả năng duy trì sức
mạnh quân sự vượt trội của quân đội Mỹ và vấn đề an ninh tại khu vực này. Các
thành tố chính trị, quân sự và an ninh trong quan hệ quốc tế có sự tương tác, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, trong bối cảnh sự thay đổi về cục diện chính trị

21
và kinh tế, các vấn đề về quân sự và an ninh tại châu Á – Thái Bình Dương có
những diễn biến rất phức tạp. Yếu tố sức mạnh quân sự và an ninh cũng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết trong các nỗ lực nhằm đảm bảo và gia tăng vị thế chính
trị và kinh tế của các quốc gia khu vực và dĩ nhiên, Mỹ không phải là ngoại lệ. Châu
Á – Thái Bình Dương là nơi có lực lượng quân sự tập trung đông đảo nhất thế giới
và chiếm phần lớn lượng chi tiêu ngân sách quốc phòng toàn cầu. Sáu trong số
mười lực lượng quân đội lớn nhất thế giới (Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga, Triều
Tiên, Hàn Quốc); nằm trong mười nước có chi tiêu quốc phòng nhiều nhất thế giới
(Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản) đều nằm ở khu vực này.
Hiện sức mạnh quân sự Mỹ vẫn đang duy trì sự vượt trội so với các quốc gia khu
vực khác nhưng khoảng cách chênh lệch cũng đang dần bị thu hẹp. Trong thời gian
qua, nhiều nước đã đẩy mạnh việc củng cố, hiện đại hóa quân đội và tăng ngân sách chi
tiêu quốc phòng tạo ra một cuộc chạy đua về sức mạnh quân sự trong khu vực.
Cuộc chạy đua về sức mạnh quân sự ấy chắc chắn đem lại nguồn thu không
nhỏ cho nước Mỹ từ việc bán vũ khí cho thị trường rộng lớn và tiềm năng này. Tuy
nhiên, điều này cũng có thể sẽ thu hẹp dần khoảng cách về tiềm lực quân sự của
một số nước so với Mỹ, thách thức ảnh hưởng của Mỹ tại châu Á – Thái Bình
Dương, thậm chí là đe dọa đến khả năng bảo đảm an ninh của chính nước này.
Đồng thời, cũng cho thấy phản ứng của các nước đối với các diễn biến an ninh phức
tạp trong khu vực. Đòi hỏi Mỹ phải có sự quan tâm thỏa đáng để ngăn chặn những
diễn biến bất lợi và tận dụng thời cơ để mang về lợi ích cho quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, châu Á – Thái Bình Dương ngày càng có vị trí quan
trọng trong tính toán chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong chiến lược của các thời
tổng thống tiền nhiệm, Mỹ chưa triển khai một chiến lược châu Á toàn diện vì chủ
yếu hoạch định và triển khai chiến lược của Mỹ đối với khu vực chỉ tập trung vào
khu vực Đông Bắc Á – Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên và gần đây là
Ấn Độ. Tuy nhiên, dưới thời Tổng thống Obama, Mỹ đã khẳng định lợi ích của Mỹ
gắn bó với khu vực hết sức quan trọng này. Ngay cả về mặt an ninh – quốc phòng,
cho dù ngân sách bị cách giảm, nhưng Chính quyền của Tổng thống Obama vẫn quả
quyết “chúng tôi sẽ duy trì sự hiện diện đủ mạnh” tại khu vực.

22
Tóm lại, với vị trí địa – chiến lược quan trọng, từ lâu trong lịch sử, châu Á –
Thái Bình Dương luôn là địa bàn cạnh tranh của các cường quốc. Tuy nhiên sau
chiến tranh Lạnh, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và theo đó là vai trò về
chính trị – an ninh được nâng cao, khu vực này càng trở nên quan trọng hơn trong
chiến lược của các cường quốc. Đồng thời bên cạnh việc Mỹ vẫn là siêu cường có
ảnh hưởng lớn nhất ở khu vực, nét đáng chú ý nhất ở châu Á – Thái Bình Dương
sau chiến tranh Lạnh là việc Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ và có vai trò ngày càng
lớn ở khu vực kể cả về kinh tế, chính trị và an ninh. Xét trên cả bình diện địa –
chính trị và địa – kinh tế, châu Á – Thái Bình Dương tập trung nhiều lợi ích và ưu
tiên chiến lược của Mỹ và Trung Quốc. Vì vậy, va chạm lợi ích và cạnh tranh ảnh
hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra ngày càng quyết liệt và phức tạp ở châu Á –
Thái Bình Dương.
1.2.3. Vấn đề tranh chấp biển đảo
Vấn đề tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ đặc biệt là các tranh chấp chủ quyền
biển, đảo ở Biển Hoa Đông và Biển Đông hiện vẫn trong tình trạng căng thẳng. Nếu
các căng thẳng ấy không được các bên liên quan giải quyết thỏa đáng sẽ tạo ra
những nguy cơ gây bất ổn, thậm chí những hành động thái quá có thể kích động sự
bùng nổ xung đột vũ trang. Điều này đe dọa đến tình hình an ninh, sự ổn định của
các nước trong khu vực. Nhưng nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn tới tình trạng mất
an ninh của những tuyến đường hàng hải trọng yếu ngang qua các vùng biển khu
vực. Và trong trường hợp một số vùng biển quốc tế bị một quốc gia kiểm soát,
khống chế thì sự tự do lưu thông trên biển sẽ bị ảnh hưởng. Là một quốc gia phụ
thuộc nhiều vào biển, lợi ích nước Mỹ thu được nhờ sự tự do lưu thông hàng hóa và
tự do đi lại các tàu quân sự ở các vùng biển khu vực là không nhỏ. Bởi vậy, đảm
bảo an ninh hàng hải và sự tự do đi lại trên biển là một nhiệm vụ ưu tiên mà Mỹ
phải giải quyết trong bối cảnh khu vực hiện nay.
Một thực tế thúc đẩy nước Mỹ tập trung hơn vào châu Á – Thái Bình Dương là
hiện nay những tranh chấp biển đảo xảy ra trong khu vực gần như đều có sự liên
quan của Trung Quốc. Nhiều nước bao gồm cả những đồng minh của Mỹ như Nhật
Bản và Phillipines, cáo buộc Trung Quốc lấn át và vi phạm chủ quyền của họ nhưng

23
lại không đủ sức chống lại. Và Mỹ được tìm đến như là quốc gia có thể giúp các
nước này đối trọng, kiềm chế sự bành trướng của Trung Quốc. Đó là cơ hội mà Mỹ
không thể bỏ qua để có thể thể hiện những cam kết đã ký với các đồng minh, can dự
sâu hơn vào khu vực, qua đó tạo dựng một cấu trúc an ninh mới mở rộng tầm ảnh
hưởng và kiềm chế các đối thủ cạnh tranh.
Biển Đông có diện tích rộng khoảng 3.5 triệu km2, với hàng nghìn hòn đảo
lớn, nhỏ. Khu vực này giàu tài nguyên khoáng sản, lại án ngữ tuyến hàng hải quốc
tế quan trọng, hằng năm chiếm khoảng 50% số lượng vận tải biển trên toàn cầu
[45]. Vì thế, Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược của nhiều nước
trên thế giới, như: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ và Liên minh châu Âu
(EU), và đó cũng là nguyên nhân cạnh tranh ảnh hưởng, lợi ích gay gắt giữa các
nước lớn. Trong năm 2015, tình hình Biển Đông, nhìn bề ngoài có vẻ “êm ả”,
nhưng thực chất bên trong lại đang “nổi sóng”, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định rất khó lường. Điều này, gây quan ngại sâu sắc và tác động trực tiếp tới cục
diện chính trị và quân sự ở Đông Nam Á.
Vì không phải là một bên trong các tranh chấp chủ quyền ở khu vực, nên Mỹ
đang dừng lại ở việc tuyên bố về lợi ích cốt lõi của Mỹ trong việc duy trì an ninh, an
toàn, tự do hàng hải trên Biển Đông và nhấn mạnh ủng hộ giải pháp hòa bình cho
các tranh chấp ở khu vực này dựa trên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trong
đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Tuy nhiên, xuất phát từ chiến lược toàn cầu và chiến lược ở châu Á – Thái
Bình Dương, Mỹ không chấp nhận bất kỳ sự thay đổi hiện trạng nào ở Biển Đông.
Mỹ đang hết sức lo ngại về sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung
Quốc đối với khu vực Đông Nam Á. Tại Đối thoại Shangri-La năm 2010, Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã khẳng định, Mỹ dù không đứng về bên nào trong
các tranh chấp chủ quyền này nhưng sẽ phản đối mọi hành động đe dọa đến tự do
hàng hải trên Biển Đông. Trước đó, tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vào tháng
7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng nêu rõ: “Mỹ có lợi ích
quốc gia đối với tự do hàng hải trên Biển Đông”. Bản thân Tổng thống Mỹ Barack
Obama cũng nêu vấn đề Biển Đông tại Hội nghị cấp cao Đông Á ở Ba-li (tháng

24
11/2011) rằng, Mỹ sẽ không đứng về bên nào trong các tranh chấp trong khu vực,
nhưng lợi ích của Mỹ bao hàm cả tự do hàng hải và đảm bảo thương mại quốc tế
trong khu vực không bị cản trở ở Biển Đông.
Đặc biệt, ngày 03/12/2014, với số phiếu tuyệt đối, Hạ viện Mỹ đã thông qua
Nghị quyết H. Res-714; trong đó, tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các giải
pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và Biển Hoa
Đông [70]. Theo đó, Mỹ chủ trương duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không;
đồng thời, lên án những hành vi cưỡng chế hoặc sử dụng vũ lực để ngăn cản việc
thực thi các quyền tự do sử dụng vùng biển hay không phận quốc tế trên Biển Đông.
Nghị quyết hối thúc Trung Quốc kiềm chế thực thi vùng nhận dạng phòng không
(ADIZ) trên Biển Hoa Đông và không lập ADIZ tại các vùng biển khác của châu Á
– Thái Bình Dương (hàm ý trên Biển Đông). Đồng thời, kêu gọi ASEAN và các
nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp,
thông qua việc thiết lập Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Như vậy, về mặt đối ngoại, tuy Mỹ không thừa nhận chính sách của mình ở
Biển Đông có sự thay đổi, nhưng các nước ASEAN coi đó là bước ngoặt trong
chính sách Mỹ ở Đông Nam Á. Thậm chí giới phân tích còn cho rằng, trong thời
gian tới ngoại giao xoay quanh những căng thẳng ở Biển Đông sẽ trở thành hoạt
động chủ đạo của Mỹ. Theo người phát ngôn của Lầu Năm Góc, hiện Mỹ đã xây
dựng xong Kế hoạch quân sự nhằm thực hiện chiến lược “Tái cân bằng” trong vòng
5 năm tới.
1.2.4. Vấn đề an ninh phi truyền thống tại châu Á – Thái Bình Dương
Vấn đề hạt nhân Triều Tiên sẽ tiếp tục “làm đau đầu” các nhà hoạch định
chính sách Mỹ. Nước Mỹ đứng trước tình thế lưỡng nan trong phương thức giải
quyết vấn đề này. Việc để một nước “thù địch” phát triển vũ khí hạt nhân đe dọa
trực tiếp tới an ninh của các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản – những quốc gia mà
Mỹ cam kết bảo đảm an ninh. Đồng thời mối đe dọa đối với an ninh nước Mỹ xuất
phát từ Triều Tiên cũng không thể loại trừ. Nước Mỹ có thể ít bị đe dọa bởi khả
năng tấn công trực tiếp từ Triều Tiên vào lãnh thổ Mỹ nhưng việc nước này thực
hiện các giao dịch liên quan đến công nghệ tên lửa đạn đạo và hạt nhân có khả năng

25
dẫn tới những công nghệ này rơi vào tay những kẻ khủng bố, tạo ra mối hiểm họa
thực sự đối với Mỹ. Mối đe dọa sẽ càng lớn nếu vấn đề đó không được giải quyết
nhanh chóng. Tuy nhiên, nước Mỹ cũng cần sử dụng lá bài “hạt nhân Triều Tiên”
để có thể duy trì và mở rộng sự hiện diện quân sự của mình tại khu vực. Mối đe dọa
từ chương trình hạt nhân của Triều Tiên là cái cớ tốt nhất để Mỹ duy trì sự hiện diện
quân ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Thực tế cho thấy, mỗi lần Triều Tiên thử hạt nhân
hay tên lửa đạn đạo, mối quan ngại của các đồng minh Nhật Bản, Hàn Quốc lại tăng
lên. Khi ấy, nước Mỹ lại cùng các đồng minh tiến hành các động thái đẩy mạnh hợp
tác quân sự, tổ chức tập trận, hoàn thiện hệ thống tên lửa. Rõ ràng, mục tiêu của
nước Mỹ khi đóng quân ở Nhật Bản và Hàn Quốc và thúc đẩy các hoạt động hợp
tác quân sự với hai nước này không hoàn toàn là với mục đích bảo vệ đồng minh và
chính họ trước mối đe dọa từ Triều Tiên. Hơn nữa, Triều Tiên cũng không phải là
mối nguy cơ nhất mà Mỹ phải quan tâm đối phó trong khu vực. Mục tiêu chiến lược
quan trọng hơn mà Mỹ muốn hướng tới là Trung Quốc, quốc gia đang có sự cạnh
tranh ảnh hưởng mạnh mẽ với Mỹ. Một khi CHDCND Triều Tiên phi hạt nhân hóa,
tình hình bán đảo Triều Tiên không căng thẳng, hoặc đi đến thống nhất (kể cả
trường hợp Bắc Triều Tiên chấp nhận sát nhập vào Hàn Quốc như mô hình sát nhập
nước Đức trước đây) thì sự giải thích cho sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Hàn
Quốc thậm chí là cả Nhật Bản sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Điều này lý giải vì
sao dù muốn phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, nhưng nước Mỹ không chấp
nhận ký một hiệp ước hòa bình theo như đề nghị của Triều Tiên để đổi lấy việc
nước này dừng chương trình hạt nhân. Nước Mỹ đang mắc kẹt trong việc tìm giải
pháp để có thể phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên mà vẫn có thể duy trì thế trận ở
khu vực Đông Á. Những nỗ lực của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Triều Tiên
trong quá khứ đã thất bại. Và đây thực sự là thách thức đối ngoại mà chính quyền
Obama phải tiếp tục tập trung giải quyết.
Ngoài ra những thách thức của các vấn đề an ninh phi truyền thống như tội
phạm xuyên quốc gia, khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, cướp
biển, an ninh lương thực, an ninh tài chính, an ninh sinh thái và an ninh năng lượng
v.v. ngày càng gia tăng. Đặc biệt, vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng trở nên
cấp bách, tác động đến nhiều nước, nổi bật là biến đổi khí hậu; thiên tai lũ lụt, thảm

26
họa thiên nhiên (động đất, sóng thần....). Chủ nghĩa khủng bố quốc tế trở thành
thách thức an ninh toàn cầu, đe dọa không chỉ nước Mỹ mà còn là nguy cơ an ninh
đối với nhiều khu vực trên thế giới. Mỹ lo ngại việc các nuớc phát triển và sở hữu
các loại vũ khí giết người hàng loạt sẽ cung cấp vũ khí hoặc công nghệ sản xuất vũ
khí cho các tổ chức khủng bố.
Như vậy, xét một cách tổng thể, trên cả ba lĩnh vực trọng yếu chính trị, kinh tế,
và an ninh, khu vực châu Á –Thái Bình Dương ngày càng trở nên quan trọng đối
với nước Mỹ. Chính khu vực này mà không phải bất kì nơi nào khác sẽ quyết định
vị thế tương lai nước Mỹ. Và chắc chắn rằng, việc duy trì và mở rộng hơn nữa ảnh
hưởng của Mỹ ra thế giới so với vị thế hiện tại là điều mà chính quyền và toàn thể
người dân Mỹ luôn hướng tới.
Tiểu kết
Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ được đưa ra trong bối cảnh châu Á – Thái
Bình Dương đang đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong môi trường chiến lược
toàn cầu, trở thành động lực mới của nền kinh tế và chính trị thế giới. Điều này
được thể hiện thông qua sức mạnh tài chính của châu Á sau hai thập niên phát triển
gần đây đang vượt qua khả năng tài chính của Mỹ và châu Âu. Chính điều này đã
góp phần nâng cao ảnh hưởng chính trị của châu Á trên trường quốc tế. Bên cạnh
đó sự mau lẹ trong quá trình mở rộng và hiện đại hóa quân sự đang giúp cải thiện
đáng kể khả năng quân sự của các nước châu Á. Chính những biến chuyển này
khiến châu Á – Thái Bình Dương trở thành trung tâm chi phối chính trị, an ninh,
kinh tế toàn cầu. Để bắt kịp xu thế, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ phải đổi
mới tư duy về những ảnh hưởng của khu vực này tới toàn thế giới. Với bối cảnh
trên và thực tế Mỹ chấm dứt cuộc chiến tại Iraq và quyết đinh rút quân khỏi
Afghanistan, chính quyền Obama đã quyết định chuyển hướng trọng tâm sang khu
vực châu Á – Thái Bình Dương.
Tóm lại, sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ ra đời
trên cơ sở bối cảnh bên trong và bên ngoài nước Mỹ có những thay đổi lớn. Nó bắt
nguồn từ thực tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang nổi lên như một trung
tâm quan trọng hàng đầu trong bức tranh địa chính trị thế giới trong khi sức mạnh

27
tương đối của Mỹ có dấu hiệu suy giảm. Chính quyền Obama đã định vị lại vai trò
của khu vực và tìm một phương cách mới để gia tăng ảnh hưởng, ngăn chặn các
tình huống xáo trộn về chiến lược, mặt khác tận dụng những cơ hội mới mà khu vực
này có thể mang lại cho nền kinh tế Mỹ.

28
CHƢƠNG 2: CHIẾN LƢỢC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG CỦA MỸ
DƢỚI THỜI OBAMA
Sau một thời gian theo đuổi và thực hiện chính sách chống khủng bố tại Iraq
và Afghanistan, Mỹ đã chuyển hướng tập trung trở lại khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Kể từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Barack Obama đã thiết lập và áp
dụng một sách lược ngoại giao thận trọng và thiết thực hơn so với thời George W.
Bush trước đó. Đặc biệt, trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh – quân sự, Tổng thống
Obama đã thực thi những điều chỉnh trong các chính sách của Mỹ đối với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương với tham vọng biến “Thế kỷ châu Á – Thái Bình
Dương” thành “Thế kỷ Mỹ”.
Ban đầu là sự hình thành và điều chỉnh về quan niệm. Mỹ tự cho mình là một
quốc gia ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong Bài phát biểu trước Quốc hội
Australia ở Canberra của Tổng thống Obama nói rằng: “Hoa Kỳ là cường quốc Thái
Bình Dương và chúng tôi sẽ mãi hiện diện ở đây” và với Tổng thống Obama thì ông
đã gọi mình là “Tổng thống Mỹ đầu tiên hành động mạnh ở khu vực Thái Bình
Dương”. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố rõ ràng rằng: “Mỹ
không phải là một khách mời của châu Á”, mà là một nước cư trú ở châu Á” [54].
Ngày 12/01/2010, trong bài phát biểu tại Trung tâm Đông – Tây ở Honolulu,
Hawaii, Ngoại trưởng Clinton cũng đã trình bày rõ ràng trọng điểm và nguyên tắc
hoạt động của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trên thực tế những
nguyên tắc và trọng điểm này là nội dung cơ bản của chiến lược an ninh châu Á –
Thái Bình Dương của Mỹ. Bà cho biết “Tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi đã trở
lại đây”, hơn nữa, bà khẳng định: “Tương lai của Mỹ gắn bó chặt chẽ với tương lai
của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và tương lai của khu vực này phụ thuộc
vào Mỹ”. Tiếp đó, ngày 21/01/2010, tại cuộc điều trần trước Quốc hội, Trợ lý Ngoại
trưởng phụ trách các vấn đề châu Á – Thái Bình Dương, Kurt M.Cambell nói rằng:
“Nhân dịp thế kỷ của châu Á – Thái Bình Dương đang đến, trong môi trường quốc
tế mới, Mỹ cần phải tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa vai trò lãnh đạo và sự tham
gia chiến lược của mình ở khu vực này” [50] .Việc thường xuyên nhắc đến cụm từ
“châu Á – Thái Bình Dương” và ví mình như một “quốc gia Thái Bình Dương” của
giới lãnh đạo Mỹ là minh chứng rõ ràng nhất để tạo ấn tượng rằng quá trình chuyển
hướng của Mỹ đến châu Á – Thái Bình Dương là tự nhiên và hết sức bình thường.

29
Mỹ đã chính thức đánh dấu bước ngoặt đến với châu Á – Thái Bình Dương,
không chỉ với tư cách một vị khách mời đến để chiêm ngưỡng và khám phá vùng
đất mới, mà còn biến mình thành một thành viên của khu vực về mặt chiến lược lâu
dài. Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ đã thận trọng tiến hành từng bước một, từ việc
lý thuyết hóa tư tưởng bằng các chính sách cho đến hiện thực hóa chúng trong
những hành động cụ thể đối với khu vực này. Chính quyền của Tổng thống Obama
đã điều chỉnh và triển khai sách lược đối ngoại mới theo hướng linh hoạt, mềm dẻo,
vận dụng tích cực sức mạnh tập thể nhằm tạo ra một mạng lưới các quan hệ đối tác
với sự lãnh đạo của Mỹ. Những điều chỉnh này dần trở nên rõ ràng hơn khi ngày
5/1/2012, Tổng thống Barack Obama công bố Chiến lược Quốc phòng Mới của Mỹ,
trong đó chủ trương chuyển trọng tâm chiến lược từ châu Âu – Đại Tây Dương sang
châu Á – Thái Bình Dương. Bản chiến lược nêu rõ: “Những lợi ích kinh tế và an
ninh của Mỹ được gắn chặt với sự phát triển trong vòng cung kéo dài từ Tây Thái
Bình Dương và Đông Á sang khu vực Ấn Độ Dương và Nam Á, tạo ra một sự kết
hợp những thách thức và cơ hội đang gia tăng. Vì vậy, trong khi quân đội Mỹ sẽ
tiếp tục đóng góp cho an ninh toàn cầu, chúng ta sẽ nhất thiết cân bằng lại đối với
khu vực. Các mối quan hệ của chúng ta với các đồng minh châu Á và các đối tác then
chốt là mang tính quyết định đối với sự ổn định và tăng trưởng trong tương lai của
khu vực. Chúng ta sẽ chú trọng tới những liên minh hiện tại của chúng ta, các liên
minh tạo nền tảng mang tính sống còn đối với an ninh của châu Á – Thái Bình
Dương. Chúng ta cũng sẽ mở rộng các mạng lưới hợp tác của chúng ta với các đối tác
đang nổi lên trên khắp châu Á – Thái Bình Dương để đảm bảo khả năng tập thể và
khả năng đảm bảo những lợi ích chung”. Như vậy, sách lược của Mỹ không chỉ dừng
lại ở việc chú trọng những lợi ích kinh tế như thời Tổng thống B.Clinton mà còn quan
tâm đặc biệt đến vấn đề an ninh – quân sự; Tổng thống Obama không chỉ ngoại giao
song phương giống Tổng thống George W. Bush mà còn mở rộng ngoại giao đa
phương, sử dụng sức mạnh mềm để can thiệp vào châu Á – Thái Bình Dương.
Xét trên khía cạnh phạm vi, sự điều chỉnh và triển khai chiến lược của Mỹ
dưới thời Tổng thống Obama đã bao trùm nhiều phương diện cả quân sự và phi
quân sự.

30
2.1. Mục tiêu chiến lƣợc
Tổng thống Barack Obama lên nhận chức trong bối cảnh nước Mỹ và thế giới
đang trải qua những biến đổi sâu sắc, thậm chí có ý nghĩa lịch sử đối với toàn thế
giới. Đó là, nước Mỹ đang trải qua một thời kỳ biến động, đầy khó khăn với sự sa
lầy tại hai cuộc chiến tranh ở Iraq và Afganistan. Nền kinh tế bị tàn phá nặng nề bởi
cuộc đại khủng hoảng 2008. Bên cạnh đó, thế giới cũng đang chứng kiến những
biến đổi và sự dịch chuyển địa – chính trị nhanh chóng, sâu sắc, phức tạp, và ẩn
chứa nhiều yếu tố bất định. Sự phân bổ lực lượng chính trị, kinh tế, và quân sự trên
thế giới đang trở nên phân tán hơn. Sự trỗi dậy của Trung Quốc – một quốc gia có
dân số đông nhất thế giới và Ấn Độ – quốc gia đông dân thứ hai thế giới, đang tiếp
tục ảnh hưởng tới quá trình hình thành hệ thống các quan hệ quốc tế ngày càng bất
định hơn, trong đó trọng tâm kinh tế và địa – chính trị của thế giới đang dịch
chuyển dần sang châu Á – Thái Bình Dương.
Đứng trước những thách thức vô cùng to lớn này, Tổng thống Obama đã xem
châu Á – Thái bình Dương như là một trọng tâm trong sách lược đối ngoại của
mình. Có thể thấy liên tục trong những năm qua, Tổng thống Obama, Ngoại trưởng
Hillary Clinton, và nhiều quan chức cấp cao của Mỹ, đã nhiều lần khẳng định khu
vực châu Á – Thái Bình Dương có tầm quan trọng đặc biệt đối với Mỹ. Vậy đâu là
lý do khiến Mỹ thực hiện chiến lược này.
Sau sự kiện nước Mỹ bị tấn công11/9, Mỹ đã đặt chiến lược trọng tâm của
mình tại Trung Đông với mục tiêu là chống khủng bố và giành thắng lợi trong cuộc
chiến ở Iraq. Trong suốt hơn mười năm tiếp theo, khi Mỹ đang mải mê dồn sức lực
cho cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq, thì tại châu Á đã hình thành một chu kỳ phát
triển kinh tế mới khiến cho tầm quan trọng của kinh tế châu Á vượt qua các nền
kinh tế khác trên thế giới. Châu Á hiện sở hữu hơn một nửa dân số thế giới, chiếm
gần một nửa kim ngạch thương mại toàn cầu và chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Mỹ [58]. Châu Á trong vài thập kỷ qua còn được nhắc tới như một khu
vực phát triển năng động nhất thế giới với sự xuất hiện của các cường quốc kinh tế
như Trung Quốc, Ấn Độ, đã thách thức vị thế siêu cường của Mỹ.

31
Thực tế cho thấy, tình hình kinh tế Mỹ khó khăn, châu Âu rơi vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng, Trung Đông và châu Phi bất ổn, thì châu Á chính là điểm
sáng để Mỹ hướng tới. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương không chỉ là một trong
những khu vực có dân số đông nhất thế giới, mà còn là một trong những khu vực có
nền kinh tế phát triển sôi động nhất và tập trung nhiều của cải nhất. Đồng thời, khu
vực này còn là một trong những khu vực có lực lượng quân sự dày đặc nhất, tiềm
lực phát triển quân sự lớn nhất, và vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân nghiêm trọng
nhất thế giới. Không những vậy, châu Á – Thái Bình Dương còn là khu vực chứa
đựng những thách thức mà Mỹ phải đối mặt, trong đó có sự trỗi dậy của Trung
Quốc, Ấn Độ, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, Iran, khủng bố ở các quốc
gia Nam Á…
Để thực hiện sự điều chỉnh trọng tâm chiến lược về châu Á – Thái Bình
Dương, Chính quyền Obama đã nhiều lần khẳng định mình là quốc gia châu Á –
Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Mỹ Hillary, khi trình bày chính sách của Mỹ về
châu Á đã chỉ rõ “Phần lớn lịch sử của thế kỷ XXI sẽ được viết tại châu Á”. “Khu
vực này sẽ xuất hiện sự tăng trưởng kinh tế mang tính thay đổi nhất, rất nhiều thành
phố của châu Á sẽ trở thành trung tâm kinh tế, thương mại và văn hoá toàn cầu”. Có
thể khẳng định rằng, các nhà ngoại giao Mỹ đang cố gắng chứng tỏ Mỹ chưa bao
giờ thực sự rời bỏ khu vực này bởi tầm quan trọng của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương trong bàn cờ chiến lược của Mỹ. Đúng như lời giải thích của Cố vấn an ninh
quốc gia Mỹ Tom Donilon “Với việc nâng tầm khu vực năng động này lên thành
một ưu tiên chiến lược, Tổng thống Obama đã chứng tỏ quyết tâm không để các lợi
ích lâu dài của nước Mỹ ở châu Á bị chi phối bởi các cuộc khủng hoảng ở những
khu vực khác trên thế giới” [58]. Với mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển
và tạo ra nhiều việc làm cho người dân Mỹ, Tổng thống Obama đã có sáng kiến
tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ vào năm 2015, trong đó khu vực châu Á – Thái Bình
Dương sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện sáng kiến này.
Nói tóm lại, mục tiêu chủ yếu của chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của
Mỹ là duy trì sự lãnh đạo của Mỹ đối với khu vực châu Á và thế giới, thúc đẩy kinh
tế Mỹ phát triển, cũng như đảm bảo các lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực này.

32
2.2. Các biện pháp triển khai chiến lƣợc châu Á – Thái Bình Dƣơng của Mỹ
Sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Chính quyền Obama
được triển khai toàn diện trên các lĩnh vực bao gồm an ninh – quân sự, chính trị,
kinh tế, cụ thể: nâng cao quan hệ song phương với các đồng minh quân sự, làm sâu
sắc hơn mối quan hệ hợp tác với các quốc gia mới nổi, thắt chặt quan hệ với các thể
chế đa phương, mở rộng thương mại và đầu tư, hiện diện quân đội trên diện rộng và
cải cách dân chủ nhân quyền.
2.2.1. Biện pháp an ninh – quân sự
a. Củng cố mối quan hệ với các đồng minh của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương
Để thực hiện sự điều chỉnh chiến lược của mình đối với khu vực châu Á – Thái
Bình Dương, Mỹ đã bắt đầu một loạt các hành động tăng cường quan hệ với các
liên minh truyền thống, gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan và
Philippines. Mỹ coi các đồng minh như là lực lượng chủ yếu để Mỹ tiếp tục duy trì
và phát huy tầm ảnh hưởng ở khu vực này. Theo đó, Mỹ hướng đến 3 nguyên tắc:
(1) Duy trì đồng thuận về chính trị đối với những giá trị cốt lõi của quan hệ đồng
minh; (2) Bảo đảm quan hệ đồng minh linh hoạt và có tính thích nghi để đối phó
thành công những thách thức mới cũng như tận dụng cơ hội mới; (3) Bảo đảm khả
năng phòng thủ và hạ tầng thông tin để có thể răn đe bất cứ sự khiêu khích nào của
các nhà nước và thực thể phi nhà nước [64].
Quan hệ Mỹ - Nhật Bản
Trong hệ thống liên minh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản
vẫn sẽ là đồng minh thân cận số một của Mỹ, đóng vai trò quan trọng nhất và là
hòn đá tảng cho chiến lược an ninh, và các mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ
ở khu vực này.
Năm 2008, Tổng thống Obama lên nắm quyền, trên cơ sở mối liên minh vững
mạnh từ trước đã tiếp tục thực thi các chính sách mới nhằm củng cố hơn nữa quan
hệ đồng minh Mỹ – Nhật gắn bó trong suốt hơn 50 năm qua. Mỹ luôn coi trọng mối
quan hệ đồng minh này, đồng thời khẳng định vai trò như một sự đảm bảo an ninh
thiết yếu trong quan hệ hai nước. Mỹ cam kết sẽ tiếp tục bảo vệ Nhật Bản và giải

33
quyết các vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên một cách tổng thể, ủng hộ Nhật
Bản là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, tăng cường
trao đổi thông tin và phối hợp trong đàm phán sáu bên, hợp tác giải quyết các vấn
đề khủng hoảng kinh tế, năng lượng sạch, an ninh, biến đổi khí hậu và các vấn đề
toàn cầu khác [39]. Trong bài viết “Kỷ nguyên châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ”
trên Tạp chí Chính sách Đối ngoại vào tháng 11/2011, Ngoại trưởng Hillary Clinton
đã xác định việc liên minh với Nhật Bản đã tạo nền tảng cho hòa bình và ổn định
trong khu vực và là minh chứng cho những nguyên tắc chiến lược của Chính quyền
Obama. Mỹ – Nhật cùng chia sẻ tầm nhìn chung về một trật tự khu vực với những
đường lối rõ ràng – từ sự tự do hàng hải đến việc mở cửa thị trường và cạnh tranh
lành mạnh.
Theo giới học giả chính trị, trong năm 2015, Mỹ và Nhật Bản sẽ thay đổi quy
trình phòng thủ chung giữa hai nước; trong đó, quy định vai trò của quân đội Mỹ và
lực lượng phòng vệ Nhật Bản (JSDF) nhằm mở rộng quan hệ đối tác quốc phòng
giữa hai nước ra bên ngoài lãnh thổ Nhật Bản. Điều này càng được khẳng định khi
ngày 10/02/2015, lần đầu tiên Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê phê chuẩn Hiến
chương về viện trợ nước ngoài, cho phép sử dụng Viện trợ phát triển chính thức
(ODA) của Nhật để hỗ trợ các lực lượng quân sự nước ngoài trong các chiến dịch
phi quân sự. Bản Hiến chương này đánh dấu lần sửa đổi đầu tiên bản Hiến chương
về viện trợ quốc tế kể từ năm 2003, và dỡ bỏ các hạn chế trước đây như: cấm Nhật
Bản hỗ trợ tài chính cho quân đội nước ngoài, do lo ngại khoản tiền này có thể được
sử dụng sai mục đích trong các xung đột quốc tế. Theo nhà phân tích Khi-mo-ri
(chuyên gia nghiên cứu các vấn đề châu Á của Nhật Bản), về lý thuyết, việc phân
bổ một lượng lớn ODA cho quân đội nước ngoài nhằm hỗ trợ các chiến dịch nhân
đạo, như: cứu trợ thảm họa, chống chọi với khủng hoảng và cả cho liên minh do Mỹ
dẫn đầu ở từng khu vực trên thế giới là hành động đáng ghi nhận. Song, trên thực tế,
phần lớn sự viện trợ này lại dành cho quân đội các nước Đông Nam Á, bởi khu vực
này hàng năm nhận được những khoản ODA nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới.
Hơn nữa, sự sửa đổi này của Nhật Bản diễn ra trong bối cảnh địa chính trị hiện tại ở
Biển Đông và Biển Hoa Đông có những diễn biến phức tạp, khó lường. Như vậy,

34
với quyết định này, Nhật Bản đã góp phần chia sẻ gánh nặng tái cân bằng của Mỹ
trong quan hệ với các nước ASEAN.
Cả Mỹ và Nhật đều nhất trí cam kết phát triển và làm sâu sắc thêm quan hệ
đồng minh, khẳng định quan hệ giữa hai nước là nền tảng đảm bảo hòa bình và ổn
định khu vực châu Á – Thái Bình Dương, khẳng định nhanh chóng, thống nhất về
vấn đề di chuyển căn cứ không quân Futenma. Mỹ xác định tăng cường củng cố
quan hệ đồng minh, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược mới ở những khu vực
trọng điểm, theo đó Bộ quốc phòng Mỹ đang hợp tác chặt chẽ với đồng minh chiến
lược Nhật Bản nhằm triển khai các kế hoạch đã được thống nhất, chia sẻ tầm nhìn
tiến tới xây dựng liên minh song phương, khu vực, và trên phạm vi toàn cầu, tập
hợp lực lượng, cấu trúc lại vai trò và khả năng hợp tác đồng minh trong lĩnh vực an
ninh, tăng cường khả năng ngăn chặn và tác chiến.
Chính vì thế mà quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật đã không ngừng được thúc
đẩy. Ngoại trưởng Hillary Clinton xác định liên minh truyền thống Mỹ – Nhật là
nền tảng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Mỹ chủ trương thắt chặt hơn nữa liên minh chiến lược truyền thống
với Nhật trong bối cảnh cục diện chính trị – quân sự và kinh tế có những diễn biến
phức tạp ảnh hưởng tới vai trò và vị trí của Mỹ trong khu vực, và thế giới.
Quan hệ Mỹ - Hàn Quốc
Quan hệ Mỹ – Hàn Quốc tiếp tục là quan hệ đồng minh chiến lược bền vững.
Nằm trong chiến lược an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, từ khi
lên nắm quyền, Tổng thống Obama đã rất chú trọng củng cố quan hệ đồng minh
này. Liên minh xuyên Thái Bình Dương Mỹ – Hàn đã khăng khít hơn kể từ khi
Tổng thống Lee Myung-Bak lên nắm quyền với lệnh dỡ bỏ cấm nhập khẩu thịt bò
của Mỹ. Vì thế chuyến thăm của Tổng thống Lee Myung-Bak ngày 13/10/2011
được xem là bước củng cố hơn nữa quan hệ giữa hai nước, đặc biệt vào thời điểm
Mỹ và Hàn Quốc mong muốn thắt chặt hơn nữa mối quan hệ đồng minh trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Sự kiện Tổng thống Barack Obama mở quốc yến
chiêu đãi Tổng thống Lee Myung-Bak và phu nhân cho thấy sự quan tâm của Mỹ
với đồng minh Hàn Quốc. Đặc biệt, việc hoàn tất FTA Mỹ – Hàn, được xem như

35
một thắng lợi với cả hai nước, hứa hẹn mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ
thương mại song phương xuyên Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, quan hệ Mỹ – Hàn
còn được tăng cường qua các cuộc tập trận chung [8].
Trong những năm gần đây, sự căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đã ảnh
hưởng sâu sắc tới mối quan hệ đặc biệt giữa Mỹ và Hàn Quốc. Mỹ cam kết bảo đảm
an ninh cho Hàn Quốc trước các mối đe dọa từ phía Triều Tiên, tăng cường phối
hợp với Hàn Quốc trong đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, khuyến
khích Hàn Quốc tham gia đối thoại an ninh Mỹ – Nhật – Hàn, tăng cường hợp tác
trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, nhân đạo, thiên tai, chống phổ biến vũ khí
giết người hàng loạt.
Với việc tăng cường củng cố quan hệ với hai nước đồng minh chủ chốt tại khu
vực, Mỹ hy vọng sẽ tạo ra cơ sở cho tiềm lực và sức mạnh của Mỹ trong cuộc cạnh
tranh quyền lực với các nước mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ trong tương lai
gần. Cho đến nay mặc dù hai nước Nhật, Hàn đều coi Mỹ là đồng minh số một, tuy
nhiên với tiềm lực và vị thế của mình cả hai nước đều có tham vọng vươn lên, ngày
càng tỏ ra muốn có tiếng nói độc lập hơn với Mỹ. Nhất là Nhật Bản đang từng bước
thể hiện vai trò cường quốc không chỉ về kinh tế mà còn là cường quốc cả về mặt
quân sự. Do đó, trong mối quan hệ đồng minh với Mỹ thì tính chất phụ thuộc vào
Mỹ trước đây đang được thay thế bằng quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Những quan hệ đồng minh khác
Bên cạnh những đồng minh lâu đời của Mỹ là Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ
cũng rất coi trọng quan hệ với Thái Lan, Philippines và Australia. Trong đó,
Australia được coi là một đối tác chiến lược mang lại những lợi ích quan trọng cho
Mỹ tại khu vực. Vị trí then chốt nằm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, cũng
như cơ sở hạ tầng quân sự hiện có ở phía Bắc và phía Tây của Australia làm cho
nước này là một đồng minh quan trọng trong việc hỗ trợ an ninh hàng hải của Mỹ ở
các vùng biển của khu vực. Mỹ và Australia đã thiết lập một căn cứ quân sự ở
Darwin, phía Bắc Australia – đây là chìa khóa để Mỹ hoàn thiện chỗ đứng của mình
tại khu vực.

36
Mỹ coi tăng cường hợp tác Mỹ – Australia là trụ cột của chính sách hướng về
khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bắt đầu từ năm 2012 trở đi, lực lượng thủy
quân lục chiến Mỹ bắt đầu đồn trú ở căn cứ Darwin, quân số từ 200 quân ban đầu
tăng lên 1.150 quân, dự tính năm 2016 sẽ tiếp tục tăng lên 2.500 quân [46].
Mỹ cũng tiếp tục duy trì, phát triển và nâng cấp mối quan hệ với tất cả các
đồng minh truyền thống ở khu vực này, với mục đích giúp các mối quan hệ này trở
nên linh hoạt hơn và có đủ khả năng ứng biến với các cuộc đối đầu đầy thách thức
[100]. Trong khi đó, Tổng thống Obama chủ động đưa vấn đề an ninh hàng hải tại
Biển Đông ra hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Đồng thời Mỹ cũng tìm kiếm quan hệ
với các đối tác mới như Indonesia, Malaysia và Việt Nam nhằm kết nối thêm các
nan hoa ở khu vực với đầu trục Mỹ, bên cạnh kết nối các nan hoa qua các đối thoại
chiến lược Mỹ – Nhật – Ấn hay Mỹ – Nhật – Philippines [13].
Bên cạnh khối đồng minh hiệp ước, Mỹ cũng tăng cường quan hệ đối tác chiến
lược và toàn diện với các quốc gia châu Á đang lên như Ấn Độ, Indonesia. Mỹ đã
đạt được sự đồng thuận trong xây dựng quan hệ đối tác Mỹ – Trung, Mỹ – Ấn và
các nước nước trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Việt Nam. Mỹ đưa các
nước Đông Nam Á vào trong các đối tác quan hệ gồm: đồng minh chính thức, đối
tác chiến lược và đối tác chiến lược có thể mong đợi. Có thể thấy, Mỹ đã triển khai
sự dính líu trên lĩnh vực an ninh, chính trị một cách nhanh chóng và tương đối toàn
diện đối với khu vực và trong chiến lược châu Á – Thái Bình Dương này, trong đó
việc mở rộng mạng lưới đồng minh là nội dung cốt lõi.
b. Tăng cường hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương
Mỹ đang đẩy nhanh điều chỉnh chiến lược quân sự ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương, xác định lại các ưu tiên quốc phòng sao cho phù hợp với khoản 490 tỷ
USD ngân sách sẽ bị cắt giảm trong vòng 10 năm tới và phù hợp với việc tái cân
bằng sang châu Á – Thái Bình Dương. Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Panetta cho biết
quân đội Mỹ sẽ sử dụng chiến thuật mới “không hải chiến” nhằm tăng cường sự
hiện diện của mình tại vùng Thái Bình Dương. Việc thay đổi chiến thuật mới sẽ đòi
hỏi duy trì một khoản ngân sách đáng kể, trong khi ngân sách quốc phòng đã bị cắt

37
giảm. Tuy nhiên, Bộ trưởng khẳng định: “Chúng tôi sẽ không chỉ duy trì mà còn
tăng cường sự hiện diện của mình ở khu vực này của thế giới” [65].
Ngày 2/6/2012, tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 11, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Leon Panetta lần đầu tiên công bố chi tiết chiến lược quân sự của quốc gia này
tại châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó đến năm 2020, Mỹ sẽ duy trì khoảng 60%
lực lượng hải quân của Mỹ có mặt tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đảm bảo
để các lực lượng này có thể tiếp cận gần hơn với tuyến vận tải biển ở khu vực; Mỹ
cũng khẳng định lại một loạt các cam kết quân sự tại châu Á – Thái Bình Dương,
gồm hiệp ước với các đồng minh Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines,
Australia và các đối tác Ấn Độ, Singapore, Indonesia cùng nhiều nước khác. Mỹ sẽ
tiến hành các động thái nhằm tái cơ cấu và bổ sung các căn cứ quân sự tại khu vực
này, đảm bảo khả năng quân sự vượt trội của Mỹ tại khu vực, đủ sức mạnh răn đe
và chiến thắng các đối thủ tiềm tàng. Đồng thời, Mỹ cũng sẽ cùng các nước đồng
minh và đối tác mở rộng quy mô và tần suất các cuộc tập trận trong khu vực.
Đối với khu vực Đông Nam Á, trong năm 2015, Mỹ tiếp tục tăng cường hợp
tác quốc phòng với các đối tác trong khuôn khổ: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+);… đồng thời, xúc
tiến triển khai 4 chiến hạm thường trực ở Singapore và sẽ đưa vào hoạt động từ
tháng 5/2017. Cũng theo Kế hoạch này, đến năm 2020, Mỹ sẽ chuyển phần lớn các
hạm đội hải quân tới Thái Bình Dương như một phần chiến lược tập trung vào châu
Á. Ngoài ra, Mỹ còn chủ trương đẩy mạnh quan hệ quân sự song phương với một số
nước ASEAN, như: Philippines, Singapore, Thái Lan và một số quốc gia khác,
nhằm tăng cường quan hệ song phương với các nước có mong muốn duy trì mở cửa
giao thông đường biển [45].
Quân đội Mỹ đang hiện diện khắp châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, Mỹ
duy trì hơn 40.000 quân tại Nhật Bản, 28.500 quân tại Hàn Quốc, gần 13.000 trên
các chiến hạm ngoài khơi, bổ sung 2500 quân tại Darwin để lấp chỗ trống ở khu
vực phía Nam Thái Bình Dương. Lầu Năm Góc đang triển khai kế hoạch di chuyển
khoảng 4.800 lính thủy đánh bộ tới Guam, 2.700 đến Hawaii, và một số lực lượng
khác trở về đóng quân tại các căn cứ trong nước Mỹ. Lực lượng Hải quân Mỹ cũng

38
bắt đầu di chuyển và hoàn tất việc bố trí 60% tổng số tàu chiến của Mỹ ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2020. Kế hoạch này không những sẽ điều động
thêm chiếc tàu ngầm thứ 4 đến Guam năm 2015 và 4 tàu chiến hoạt động ven bờ ở
Singapore, mà còn tăng thêm các máy bay tuần tra biển và di chuyển các máy bay
không người lái Fire Scout UAV và máy bay trinh sát điện tử từ chiến trường
Afghanistan đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ngoài ra, Lực lượng Hải
quân Mỹ cũng đang di chuyển nhiều tài sản khác khỏi châu Âu về châu Á. Tương
tự, Lực lượng Không quân Mỹ cũng bắt đầu thực hiện kế hoạch di chuyển các đơn
vị không quân từ Afghanistan đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương gồm các lữ
đoàn máy bay ném bom B-1, máy bay trinh sát không người lái MQ-9 Reaper và U-
2, máy bay không người lái Global Hawk; Không quân Mỹ đã luân phiên triển khai
các máy bay F-22, B-52 và B-2 tại khu vực Thái Bình Dương, chủ yếu ở đảo Guam
và Okinawa. Lục quân Mỹ sẽ điều động khoảng 91.000 binh sĩ và nhân viên dân sự
đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm tăng cường nhân lực và hỗ trợ 8 toán
lữ đoàn chiến đấu, 12 trận địa tên lửa Patriot và các lực lượng khác [44].
Như vậy, Mỹ đã hình thành một vòng cung quân sự chiến lược ở châu Á –
Thái Bình Dương với các nước đồng minh thân cận và đối tác tin cậy. Sự hiện diện
quân sự này sẽ giúp cho Mỹ linh hoạt trong bố trí lực lượng, dễ dàng kiểm soát và
nhanh chóng đối phó với những ảnh hưởng quân sự từ Trung Quốc. Có thể thấy,
cho dù ngân sách bị cắt giảm, nhưng chính quyền Obama vẫn quả quyết sẽ duy trì
sự hiện diện đủ mạnh ở khu vực này.
2.2.2. Biện pháp kinh tế
a. Mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với khu vực
Không chỉ có một vị trí địa chính trị đặc biệt, châu Á – Thái Bình Dương còn
được coi là khu vực kinh tế phát triển năng động vào bậc nhất thế giới. Khu vực này
đã đóng góp cho nền kinh tế thế giới các cường quốc kinh tế hàng đầu như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Hơn nữa, trong bối cảnh kinh tế Mỹ bị tác
động nặng nề bởi cuộc đại khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu 2008, thì lợi ích
kinh tế là động lực chính của sự chuyển hướng chiến lược, là khâu đột phá để Mỹ
củng cố vai trò lãnh đạo. Chính bởi những lợi ích không thể bỏ qua ở khu vực này,

39
Mỹ đã không ngừng tăng cường các quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực. Mỹ tiếp
tục mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư, hình thành sự kết nối sâu rộng hơn với
các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương nhằm thúc đẩy kinh tế Mỹ tăng trưởng,
đưa hàng hóa Mỹ thâm nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và giải quyết vấn đề
việc làm.
Trong khi Liên minh Mỹ – Nhật luôn được coi là cột trụ trong chiến lược của
Mỹ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thì quan hệ Mỹ – Hàn Quốc tạo ra
nhiều lợi ích kinh tế. Mỹ hướng tới các hiệp định thương mại mới với Hàn Quốc
(giảm 95% thuế đối với xuất khẩu của Mỹ và giúp tạo ra 70.000 việc làm, giúp tăng
10 tỷ USD xuất khẩu hàng năm của nước này). Với gần 600 triệu dân và GDP đạt
1.100 tỷ USD, Đông Nam Á là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Mỹ và là đối tác
thương mại lớn thứ 5 của nước này. Năm 2011, giao dịch thương mại hai chiều giữa
Mỹ và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã đạt trên 186 tỷ USD. Đồng
thời, Mỹ cũng đang là nước đầu tư lớn thứ 3 ở ASEAN, với tổng vốn đầu tư đạt 8,5
tỷ USD năm 2010. Mỹ nhấn mạnh sẽ tăng cường hợp tác với khối ASEAN để triển
khai hiệu quả các dự án và hoạt động trong kế hoạch hành động giai đoạn 2011 –
2015 [69].
Cấu trúc khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang được định hình trên hai trụ
cột chính là Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) – trụ cột chính trị - an ninh, và Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) – trụ cột kinh tế. Trong
tổng thể chiến lược khu vực của Chính quyền Obama, có thể nói APEC tiếp tục là
cầu nối quan trọng gắn kết lợi ích kinh tế Mỹ với kinh tế khu vực. Thể hiện cam kết
mạnh mẽ “quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương” của Mỹ, năm 2011 khi Mỹ làm
chủ nhà APEC, đây được xem là “cơ hội vàng” để Chính quyền Obama tiến hành
những bước đột phá tiếp theo trong lộ trình quay trở lại khu vực từ chính trị đến an
ninh, kinh tế; từ song phương đến đa phương [5]. Tại APEC – 2011, Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố: “Mỹ trở lại châu Á không phải để khôi
phục lại vị thế của mình mà là để tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo và dẫn đầu
trong khu vực”. Nhằm tìm kiếm những nỗ lực chung để phục hồi nền kinh tế, trong
cuộc họp cấp cao các Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 19, Bộ trưởng Tài chính

40
Mỹ Timothy Geithner và các Bộ trưởng Tài chính của các nền kinh tế thành viên
APEC đã ra một bản tuyên bố chung cam kết có những hoạt động phối hợp để đẩy
mạnh sự phục hồi kinh tế toàn cầu, củng cố lại tính ổn định của ngành tài chính và
duy trì các thị trường mở, bên cạnh đó xây dựng một nền móng vững chắc để đạt
được sự tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững và cân bằng. Tiếp đó, tại APEC – 2012,
trong bài phát biểu của mình, bà Hillary Clinton đã nhấn mạnh: “Sự tăng trưởng các
nền kinh tế của chúng ta đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, vì thế tôi cho rằng,
phần lớn lịch sử của thế kỷ XXI sẽ được viết nên tại châu Á. Sau một thời kỳ Mỹ
tập trung sự chú ý vào các khu vực và các cuộc xung đột khác trên thế giới, giờ
đây, chúng tôi đang tăng cường các khoản đầu tư vào khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Chúng tôi tìm kiếm sự hợp tác với các quốc gia khác để xây dựng
một trật tự khu vực công bằng và ổn định đem lại lợi ích cho tất cả các bên”.
Như vậy, quan điểm chiến lược kinh tế của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương đã
rõ ràng, Mỹ ngày càng chủ động và tích cực hơn trong các mối quan hệ kinh tế
tài chính ở khu vực này.
Không chỉ vậy, Mỹ đã tích cực vận động cho việc ký kết Hiệp định đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) hướng tới “khu mậu dịch tự do
châu Á – Thái Bình Dương” do Mỹ chủ đạo. Đồng thời, Mỹ sẽ sử dụng TPP làm
công cụ chủ yếu để giảm bớt rào cản thương mại và đầu tư, thúc đẩy tương tác kinh
tế lẫn nhau tại khu vực này. Với Mỹ, TPP vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa mang tầm
quan trọng chiến lược. Một khi tất cả các nền kinh tế APEC tham gia TPP thì sẽ là
khởi đầu cho nền tảng của mậu dịch tự do toàn khu vực.
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng với Hiệp định đối tác
thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP) được đánh giá là hai trụ cột của
Học thuyết Obama nhằm duy trì vai trò dẫn dắt của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu.
Ở châu Á – Thái Bình Dương nói chung, Đông Nam Á nói riêng, Mỹ từng có ý định
sử dụng Diễn đàn hợp tác kinh tế (APEC) để phát huy ảnh hưởng kinh tế lớn hơn
đối với khu vực. Tuy nhiên, do sự phát triển và ảnh hưởng của nhiều nền kinh tế
trong khu vực, trước hết là của Trung Quốc, nên vai trò của Mỹ bị suy giảm. Vì thế,
Mỹ phải tìm cách thức khác để định hình lại chính sách thương mại đối với khu vực

41
châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó, Mỹ đã đề xuất sáng kiến tham gia đàm phán
TPP vào năm 2008. Với bước đi này, Chính quyền của Tổng thống Barack Obama
hy vọng, TPP sẽ cải thiện các mối quan hệ thương mại xuyên Thái Bình Dương, đặt
nền móng cho một chương trình tự do thương mại do Mỹ dẫn dắt. Theo các chuyên
gia kinh tế, thỏa thuận về TPP nếu được ký kết sẽ là một thắng lợi lớn đối với Mỹ
trong “cuộc chiến kinh tế” đang diễn ra ở Đông Nam Á và cả châu Á – Thái Bình
Dương. Đây cũng sẽ là minh chứng sinh động cho chính sách tái cân bằng của Mỹ ở
Đông Nam Á nói riêng và chiến lược “Xoay trục” sang châu Á – Thái Bình Dương
nói chung.
Theo đại diện thương mại Mỹ, Chính phủ Mỹ dự kiến Quốc hội Mỹ sẽ phê
chuẩn thỏa thuận này vào cuối năm 2015, trước khi chiến dịch bầu cử tổng thống
Mỹ (vào năm 2016) bước vào giai đoạn quan trọng nhất. Việc hoàn tất TPP còn có
ý nghĩa quan trọng để Mỹ chứng minh rằng chiến lược “Tái cân bằng” sang châu Á
– Thái Bình Dương của Mỹ bao gồm cả lĩnh vực kinh tế cũng như các vấn đề an
ninh.
b. Tăng cường tham gia vào các thể chế khu vực
Để tăng cường sự hiện diện có tính “thể chế”, Chính quyền Obama đã kiên
quyết tham gia vào rất nhiều chương trình nghị sự ở châu Á – Thái Bình Dương.
Với một lý do hết sức đơn giản, Mỹ tin rằng cấu trúc khu vực sẽ tăng cường cơ chế
pháp quyền, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm tự do hàng hải vốn là những trụ
cột của trật tự quốc tế. Do đó, Mỹ đã tiến hành can dự đầy đủ các thể chế khu vực,
trong đó có các thể chế ASEAN, APEC và đóng vai trò tích cực trong việc xây
dựng chương trình nghị sự. Mỹ cũng đã mở cơ quan đại diện bên cạnh ASEAN tại
Jarkarta. Tổng thống Obama cũng đã chủ trì Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011
với cam kết củng cố APEC như là cơ chế hợp tác kinh tế quan trọng nhất tại châu Á
– Thái Bình Dương. Cũng tại diễn đàn này, Mỹ tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp
định hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm phục vụ cho việc xây
dựng cơ chế quản trị khu vực mới dưới sự chi phối của Mỹ. Mỹ cũng nỗ lực sáng
tạo và khởi động một số diễn đàn “tiểu đa phương” như Sáng kiến hạ nguồn sông
Mê Kông và Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương.

42
Mỹ cũng tích cực tham gia Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia Đông Á (EAS).
Nếu APEC chỉ là nơi họp bàn, thảo luận các vấn đề về kinh tế và thương mại, thì
EAS là diễn đàn đối thoại về “các vấn đề kinh tế, chính trị, chiến lược vĩ mô dựa
trên mối quan tâm chung và lợi ích chung của các bên tham gia” [8]. Việc tham gia
EAS phản ánh sự thay đổi đáng kể trong chính sách của Mỹ. Trong giai đoạn trước,
Mỹ cho rằng Chủ nghĩa đa phương ở châu Á sẽ chỉ gây phương hại cho lợi ích của
người Mỹ và đe dọa phá hoại hệ thống liên minh “bánh xe và nan hoa” của họ.
Chính quyền George W. Bush không hội nhập sâu hơn vào khu vực này và tỏ ra rất
hoài nghi về hợp tác đa phương tại đây. Hiện nay, có vẻ như Chính quyền Obama
lại đang đặt các thể chế thuộc châu Á – Thái Bình Dương làm trung tâm chính sách
đối ngoại của Mỹ trong khu vực. Mỹ gia nhập EAS có ý nghĩa rất quan trọng tới
triển vọng phát triển, hợp tác, cũng như việc định hình cấu trúc quản trị đa phương
của khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Mỹ đã chủ động tăng
cường quan hệ, tích cực tham gia các hoạt động ngoại giao trong khu vực. Để khẳng
định hơn nữa quyết tâm trở lại và mong muốn đóng vai trò lớn hơn với Đông Nam
Á, Mỹ đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với ASEAN. Hơn nữa, chuyến thăm
châu Á và việc tham dự Diễn Đàn khu vực ASEAN của Ngoại trưởng Mỹ đã chính
thức khép lại mối quan hệ mang tính chất nóng lạnh giữa Mỹ và các nước Đông
Nam Á. Bên cạnh đó Mỹ cũng coi ASEAN như là điểm tựa cho chiến lược ở châu
Á. Hội nghị Cấp cao Đông Á mở rộng nhấn mạnh tầm quan trọng của mô hình
ASEAN+8 trong triển vọng hợp tác khu vực. Mô hình ASEAN+8 bao gồm 10 quốc
gia Đông Nam Á và 8 quốc gia khác là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand, Mỹ và Nga. Có thể thấy, Mỹ và ASEAN đã nhận ra sự cần
thiết phải thực hiện các nỗ lực liên minh và hợp tác đa phương để cùng nhau giải
quyết các vấn đề bất ổn trong khu vực có liên quan.
2.2.3. Biện pháp ngoại giao
a. Tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi và các quốc đảo tại Thái
Bình Dương
Tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi là Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Singapore, New Zealand, Malaysia, Mông Cổ, Việt Nam, Brunei và các

43
quốc đảo tại Thái Bình Dương là một phần nỗ lực rộng lớn hơn để đảm bảo sự tiếp
cận toàn diện hơn và sự góp mặt của Mỹ trong khu vực. Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton nêu rõ: “Ngoài hiệp ước đồng minh, Mỹ sẽ tăng cường quan hệ với các
nước chủ chốt khác, chúng tôi sẽ tiến hành đối thoại chiến lược với Ấn Độ, triển
khai đối thoại chiến lược và kinh tế với Trung Quốc, xây dựng quan hệ đối tác toàn
diện với Indonesia”; “Chúng tôi đang tăng cường quan hệ với các đối tác mới và đối
tác lâu dài của chúng tôi, chẳng hạn như quan hệ với Việt Nam và Singapore”;
“Chúng tôi mong muốn các đối tác đang nổi này cùng với Mỹ tham gia vào việc
định hình một trật tự khu vực và toàn cầu dựa trên luật lệ” [54].
Quan hệ Mỹ – Trung là một trong những quan tâm hàng đầu đối với các nhà
hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế và các nhà phân tích
chiến lược ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Mối quan tâm này có thể được
lý giải chủ yếu bởi một thực tế quan hệ Mỹ – Trung là mối quan hệ song phương
quan trọng nhất ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đây là mối quan hệ giữa
một siêu cường duy nhất với một cường quốc đang nổi lên, có tiềm năng thách
thức vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ trong thế kỷ XXI. Xét về sức mạnh quốc
gia tổng hợp, Mỹ và Trung Quốc là hai nước lớn nhất ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương hiện nay.
Có thể thấy, kể từ khi Tổng thống Obama lên nhậm chức, Trung Quốc và Mỹ
đều thể hiện sự quyết tâm và mong muốn thắt chặt mối quan hệ nhằm đối phó với
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Hai nước đã đạt được nhiều tiến bộ trong các
lĩnh vực hợp tác như kinh tế, thương mại hay cuộc chiến chống khủng bố. Hai bên
cũng đã hợp tác hiệu quả trong các vấn đề lớn của khu vực và quốc tế như cuộc
khủng hoảng hạt nhân Iran, vấn đề phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên, an ninh
năng lượng và biến đổi khí hậu. Bất chấp những bất đồng trong một loạt vấn đề,
quan hệ Mỹ – Trung được cho là sẽ tiếp tục phát triển. Có thể nói, hợp tác, tránh đối
đầu sẽ là nền tảng chính giúp quan hệ hai bên nâng lên tầm cao mới. Hai nước cũng
nhất trí, trong bối cảnh tình hình chính trị và kinh tế quốc tế thay đổi liên tục và
phức tạp, Mỹ và Trung Quốc cần cố gắng tăng cường sự hiểu biết chung, giảm
những bất đồng, củng cố sự tin tưởng lẫn nhau và thúc đẩy hợp tác qua đối thoại

44
kinh tế và chiến lược. Điều này sẽ đem lại lợi ích chung của cả hai nước và sẽ
giúp xây dựng mối quan hệ hợp tác, tích cực và toàn diện giữa hai bên. Đồng
thời cũng rất quan trọng đối với hoà bình, sự ổn định, phát triển và thịnh vượng
của toàn thế giới.
Với Ấn Độ và Indonesia, Mỹ coi đây là hai cường quốc dân chủ quan trọng và
năng động nhất tại khu vực. Mỹ ủng hộ chính sách Hướng Đông của Ấn Độ, ủng hộ
cơ chế 3 bên mới hình thành Mỹ – Nhật – Ấn. Với Indonesia, Mỹ đã nối lại tập trận
và ký một số hiệp định hợp tác, song hai bên cần làm việc hơn nữa để loại bỏ rào
cản hành chính và những nghi ngờ mang tính lịch sử, cũng như làm rõ hơn quan
điểm và lợi ích của nhau.
b. Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền
Trong lịch sử, các Chính quyền Mỹ đều coi việc truyền bá quan niệm giá trị và
dân chủ là nhiệm vụ của mình, Chính quyền Obama cũng không phải là ngoại lệ.
Thực tế cho thấy, Mỹ trong những năm đầu thế kỷ XXI rất tích cực trong việc thúc
đẩy dân chủ và nhân quyền. Hàng loạt các cuộc “cách mạng màu” đã nổ ra ở khu
vực châu Âu và Trung Á, Mỹ cũng đẩy mạnh việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền
như là một nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại (như ở Trung Quốc, Nga và
một số quốc gia khác). Vấn đề dân chủ và nhân quyền hay việc theo đuổi mục tiêu
phổ biến hệ giá trị Mỹ ra toàn thế giới là một khát vọng của người Mỹ. Tổng thống
Obama đã tuyên bố: “Tôi có một niềm tin mãnh liệt rằng tất cả các dân tộc đều khát
vọng cho những điều tất nhiên: được nói những gì mình suy nghĩ, tin vào chế độ
pháp quyền và được đối xử công bằng, chính phủ trong sạch, tự do sống như cách
mà mình đã lựa chọn. Đây không phải là ý muốn của người Mỹ mà đây là quyền
con người. Và đây là lý do chúng ta sẽ ủng hộ vấn đề này” [78].
Tổng thống Obama đã dùng việc tuyên truyền quan niệm giá trị nhân quyền và
dân chủ của Mỹ làm công cụ dư luận để thực hiện chiến lược ở châu Á – Thái Bình
Dương. Khi tăng cường hợp tác và tiếp xúc toàn diện với các chính quyền ở châu Á,
chính quyền Obama luôn lấy “tự do”, “dân chủ” làm lý do để kiềm chế các nước
liên quan. Hơn nữa, Mỹ còn tiếp tục thúc giục các nước tiến hành cải cách nhằm
tăng cường quản trị, bảo vệ nhân quyền và tăng cường tự do chính trị. Nhìn chung,

45
vấn đề thúc đẩy dân chủ và nhân quyền dưới thời Tổng thống Barack Obama vẫn
được duy trì. Sự khác biệt trong việc thúc đẩy dân chủ giữa thời Obama với các
chính quyền tiềm nhiệm chính là việc lồng ghép dân chủ, nhân quyền vào các vấn
đề phát triển nói chung. Ngoại trưởng Mỹ trong bài phát biểu về “Phát triển trong
thế kỷ XXI” tại Washinton D.C đã nhấn mạnh: “Phát triển sẽ hỗ trợ cho mục tiêu
quan trọng của chúng ta trong vấn đề ngoại giao: thúc đẩy dân chủ và nhân quyền
toàn cầu” [14]. Mặc dù dân chủ, nhân quyền vẫn được thúc đẩy dưới thời cử Tổng
thống Obama, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Mỹ tiếp cận vấn đề một cách mềm
mỏng hơn, lồng ghép vào các vấn đề an ninh, vào các lợi ích về thương mại và đầu
tư của quốc gia này và người ta cũng ít thấy hơn các “cuộc cách mạng màu”, “cách
mạng nhung” như trong giai đoạn trước đây trên thế giới.
Trong chuyến công du đến châu Á tháng 07/2012 của mình, Ngoại trưởng
Hillary Clinton với mục đích quan trọng nhằm thuyết phục các đồng minh trong
khu vực rằng “trục châu Á” của Mỹ chính là để thúc đẩy nhân quyền và dân chủ
chứ không phải là kiềm hãm sự trỗi dậy của Trung Quốc. Bà Hillary Clinton cũng
thừa nhận rằng quân đội Mỹ tiếp cận với các đối tác khác trong khu vực với sự lo
lắng về tham vọng thống trị của Trung Quốc đã trở thành một tiêu đề chính kể từ
khi Chính quyền Obama công bố chiến lược năm 2011.
Những năm gần đây, việc xúc tiến dân chủ hóa khu vực được Mỹ coi trọng
như một chính sách ưu tiên của Mỹ đối với các nước ASEAN, mà trọng tâm là
hướng vào Myanmar – nơi diễn ra sự cạnh tranh địa chính trị ngày càng gay gắt
giữa Mỹ và Trung Quốc. Với chủ trương đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama kêu
gọi Chính quyền của Tổng thống Thein Sein tiến hành một cuộc bầu cử “toàn diện
và công bằng” trong năm 2015. Đồng thời, Washington cũng hối thúc Nây-Pi-Tô
thực thi các biện pháp bổ sung nhằm giải quyết tình trạng căng thẳng sắc tộc tại
bang Rắc-khi-ne ở miền Tây nước này, nơi đã từng diễn ra các làn sóng bạo lực
(vào năm 2012) giữa người theo đạo Phật và người Hồi giáo thiểu số Rô-hing-a,
khiến hàng trăm người chết và hơn 14.000 người phải đi lánh nạn. Đáp lại, Tổng
thống Myanmar Thein Sein đã triệu tập một cuộc họp “toàn thể” với sự tham gia
của lãnh đạo quân đội và các chính đảng toàn quốc để thảo luận các vấn đề chính trị

46
trong nước [45]. Cuộc họp được tổ chức vào thời điểm rất quan trọng trong bối cảnh
chính phủ Myanmar đang cố gắng đạt được thỏa thuận ngừng bắn trên toàn quốc
với nhiều nhóm phiến quân, trước khi tiến hành cuộc tổng tuyển cử vào cuối năm
2015. Đây vừa được coi là một phép thử mang tính then chốt đối với các bước cải
cách dân chủ ở Myanmar; đồng thời, cũng thể hiện chính sách tái cân bằng của Mỹ
ở Đông Nam Á trên lĩnh vực đầy nhạy cảm này. Đối với Việt Nam, cùng với các
hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tài chính, Mỹ vẫn tiếp tục sử
dụng “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” để gây sức ép.
Tóm lại, song song với việc sử dụng sức mạnh cứng như tiềm lực kinh tế, quân
sự,… Mỹ còn coi dân chủ, nhân quyền như một công cụ để thực thi sức mạnh mềm
nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược.
2.3. Đánh giá kết quả của chiến lƣợc
Chiến lược chuyển trọng tâm của Mỹ sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương
được triển khai từ cuối năm 2011. Tháng 10/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton
đã nói rằng nước Mỹ “chuyển hướng một cách chiến lược sang khu vực này nhằm
đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của nước Mỹ, củng cố các lợi ích tại
khu vực được đánh giá là có tiềm năng nhất trong thế kỷ XXI”. Dưới đây là một số
đánh giá về kết quả thực hiện chiến lược châu Á – Thái Bình Dương trên các lĩnh
vực kinh tế, quân sự, mức độ can dự vào các thể chế khu vực, củng cố đồng minh
và xây dựng đối tác mới, vấn đề xã hội dân sự và nhân quyền.
Về kinh tế
Chính quyền Tổng thống Barack Obama hiện nay đang theo đuổi chiến lược
hai mũi nhọn về kinh tế tại khu vực, theo đó sử dụng chính sách ngoại giao để hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế Mỹ (còn gọi là ngoại giao thương mại), và đồng thời sử dụng
can dự kinh tế để hỗ trợ cho các ưu tiên trong chính sách ngoại giao. Mỹ xác định
Hiệp định Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là sự tập trung chủ chốt
trong chính sách thương mại của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời là
nền tảng cho chiến lược tái cân bằng. TPP là hiệp định mở đối với tất cả các thành
viên APEC và có thể là tất cả các thành viên ASEAN trong tương lai. Tháng

47
11/2012, Mỹ đã triển khai Sáng kiến Cam kết mở rộng quan hệ kinh tế Mỹ –
ASEAN trên cơ sở một thỏa thuận trước đó nhằm giúp các nước ASEAN không
phải là thành viên TPP đạt được các tiêu chuẩn có thể cho phép họ trở thành thành
viên trong tương lai.
Sau hơn 5 năm đàm phán tích cực, ngày 5/10/2015 tại Atlanta – Mỹ, Hội nghị
Bộ trưởng Thương mại các nước thành viên Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đã đạt được thỏa thuận cuối cùng, kết thúc thành công đàm phán Hiệp
định TPP của 12 nước thành viên. TPP được coi là thỏa thuận thương mại tự do lớn
nhất thế giới. Hiệp định này được đàm phán từ tháng 3/2010, gồm 12 quốc gia –
Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore, Mỹ và Việt Nam. Các vấn đề được nêu ra gồm quyền sở hữu trí tuệ, luật
đầu tư nước ngoài, tiêu chuẩn môi trường và lao động, chính sách thu mua, cạnh
tranh và công ty quốc doanh, quy trình xử lý tranh chấp. Sau khi hoàn tất, TPP sẽ
bao phủ 40% kinh tế toàn cầu và bổ sung cho GDP thế giới thêm gần 300 tỷ USD
mỗi năm [72].
Nếu như các hiệp định thương mại trước đây thường tập trung nhiều vào vấn
đề giảm thuế, thì TPP lại được coi là hiệp định thương mại toàn diện, nhắm đến việc
thiết lập bộ quy tắc thương mại tiêu chuẩn cao, giải quyết các vấn đề của kinh tế
toàn cầu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và việc làm tại các quốc gia châu Á – Thái
Bình Dương. Với chính sách tạo thuận lợi thương mại, các nước tham gia Hiệp định
cam kết cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế về căn bản đối với tất cả
thương mại hàng hóa và dịch vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại
trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội và lợi
ích mới cho doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước thành
viên. Hiệp định TPP được coi là Hiệp định của Thế kỷ XXI, được kỳ vọng sẽ thúc
đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa hai bờ Thái Bình Dương, giúp tăng
trưởng kinh tế, tạo thêm công văn việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của
người dân, khuyến khích thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, tăng tính minh bạch và năng lực quản trị, đồng thời nâng
cao chất lượng lao động và bảo vệ môi trường.

48
Hiệp định TPP cũng bao gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các
nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể
hưởng lợi từ thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định
mang lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên.
Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và nâng cao năng lực
thương mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên đều có thể đáp ứng được những cam kết
trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích của Hiệp định.
Hiệp định cũng đưa ra các quy định mới về quy tắc xuất xứ nhằm hỗ trợ chuỗi
cung ứng của toàn khu vực. Nội dung cam kết về dịch vụ tài chính cũng là điểm
mới của Hiệp định này, góp phần tăng cơ hội đầu tư xuyên quốc gia trong khu vực
kết hợp với các yêu cầu về tăng cường thể chế và các biện pháp ứng phó khủng
hoảng. Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu
vực và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực châu
Á – Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà TPP đem lại, các ngành hàng trong
nước cũng đối mặt với nhiều thách thức, cạnh tranh từ các nước thành viên TPP khi
các sản phẩm cùng loại với chất lượng cao hơn, giá thành cạnh tranh hơn như: thịt
gà, thịt lợn, thịt bò, ngô, đậu tương hoặc các ngành công nghiệp như ô tô, máy móc
thiết bị… Ngoài ra, TPP cũng đặt ra các yêu cầu về minh bạch hóa thông tin, về xây
dựng khuôn khổ pháp lý theo các tiêu chuẩn cao hơn. Đây sẽ là thách thức, đồng
thời là động lực để các nước thành viên hoàn thiện pháp luật trong nước để hội nhập
sân chơi chung, góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và thuận lợi, thu
hút vốn đầu tư.
Các cơ quan tài chính liên bang cũng đóng vai trò lớn trong can dự kinh tế của
Mỹ với khu vực và đã chuyển hướng nguồn lực của họ tới châu Á – Thái Bình
Dương trong những năm qua. Trong giai đoạn 2008-2013, nguồn lực của Ngân
hàng Xuất Nhập khẩu (Exim Bank) tại châu Á – Thái Bình Dương tăng 14 tỷ USD;
nguồn lực của Tập đoàn đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) tăng từ 1 tỷ lên 2,7 tỷ
USD. Trong năm tài khóa 2013, 41% tổng chi tiêu của Cơ quan Phát triển và

49
Thương mại Mỹ (USTDA) là tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. USTDA đã
chi 7,5 triệu USD cho các chương trình tại Đông Á và 9,7 triệu USD tại Nam Á và
Đông Nam Á, trong đó có các dự án tại Indonesia và Việt Nam theo Sáng kiến Đối
tác toàn diện Mỹ – châu Á – Thái Bình Dương vì Năng lượng Bền vững. Đồng thời,
năm 2013, Mỹ cũng đưa ra các kế hoạch nhằm thúc đẩy đầu tư từ châu Á – Thái
Bình Dương vào Mỹ [90].
Biểu đồ 4: Tổng nguồn vốn các quỹ đầu tƣ vốn cổ phần tại
châu Á–Thái Bình Dƣơng tích lũy

(Nguồn: CBRE Research, Preqin, ANREV)


Về quân sự
Sự điều chỉnh chiến lược chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ về cơ bản là một chiến lược quân sự mới. Khía cạnh quân sự trong
chiến lược lần này là đánh giá lại vị thế an ninh và quân sự toàn cầu của Mỹ, trọng
điểm chiến lược toàn cầu của Mỹ chuyển từ Trung Đông sang châu Á – Thái Bình
Dương và cân bằng sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mục tiêu trọng tâm của chiến lược
này là xây dựng hệ thống hợp tác phòng thủ với căn cứ quân sự tiền duyên và sức
mạnh quân sự của Mỹ, cố gắng có thể bao trùm đa số các nước trong khu vực.
Chiến lược của khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã xuất hiện những thay đổi lớn
nhất từ khi chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay. Với khái niệm tác chiến không –
biển, quân đội Mỹ sẽ gắn Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương và điều này có nghĩa

50
là sự hiện diện quân sự của Mỹ sẽ trải rộng hơn nhưng cũng gắn kết hơn. Để thúc
đẩy hơn nữa trong lĩnh vực quân sự, Bộ quốc phòng Mỹ đã tăng cường năng lực quân
sự thông qua phát triển năng lực, tăng cường hiện diện và tập trận, đào tạo.
Phát triển năng lực: Mỹ đang đầu tư phát triển những năng lực cho phép các
lực lượng của Mỹ tăng cường năng lực phát huy sức mạnh trên biển, trên không và
dưới biển. Mỹ đã triển khai tàu sân bay USS Ronald Reagan thay thế tàu USS
George Washington đến đồn trú tại Nhật Bản. Đến năm 2020, tàu đổ bộ USS
America cũng sẽ đến Nhật Bản để hoạt động tại khu vực này. Chính vì thế, sự hiện
diện của USS America đồng nghĩa với việc Mỹ triển khai 2 hàng không mẫu hạm
túc trực tại châu Á – Thái Bình Dương. Đặc biệt, Lầu Năm Góc còn vạch kế hoạch
đồn trú cả 3 siêu tàu khu trục lớp Zumwalt đầu tiên tại Hạm đội Thái Bình Dương.
Lực lượng chiến hạm cận bờ đồn trú luân phiên ở Đông Nam Á cũng sẽ được tăng
cường khả năng hoạt động.
Để hỗ trợ hải quân, một lực lượng hùng hậu chiến đấu cơ gồm F-22, B-2, B-
52… được củng cố ở Thái Bình Dương. Từ năm 2017, một số chiến đấu cơ F-35
hiện đại sẽ bắt đầu được điều động đến đây. Lầu Năm Góc cũng củng cố cả hệ
thống radar, do thám và máy bay trinh sát, chống ngầm ở khu vực này. Kèm theo
đó, các máy bay không người lái vũ trang lẫn trinh sát của Mỹ sẽ hoạt động nhiều
hơn. Hàng loạt kế hoạch nâng cấp và tăng cường thêm nhiều loại tên lửa tối tân
cũng được Lầu Năm Góc đề ra cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương [75].

51
Biểu đồ 5: Lực lƣợng hải quân một số nƣớc châu Á – Thái Bình Dƣơng

(Nguồn: Báo cáo của Lầu Năm Góc)


Hiện diện: Bộ Quốc phòng Mỹ đã có những điều chỉnh nguồn lực nhanh
chóng để thích ứng với chiến lược mới của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương. Các
kế hoạch điều chuyển lực lượng và trang thiết bị tới khu vực đã, đang và sẽ được
triển khai, Mỹ hiện đang duy trì 368.000 binh sĩ ở khu vực. Trong 05 năm tới, Mỹ
sẽ tăng gần 30% tàu chiến cho Hạm đội Thái Bình Dương. Đến năm 2020, 60% tàu
chiến và máy bay chiến đấu của Mỹ ở nước ngoài sẽ tập trung ở châu Á – Thái Bình
Dương. 6 trong số 11 tàu sân bay sẽ được bố trí ở châu Á – Thái Bình Dương, điều
2.500 lính thủy đánh bộ tới Darwin (Australia); thêm 1 tiểu đoàn lục quân tới Hàn
Quốc; 2 tàu khu trục phòng vệ tên lửa tới Nhật Bản. Nhật Bản, Úc và Guam là
những điểm hiện diện quan trọng ở khu vực. Ngoài ra, Mỹ sẽ điều luân phiên bốn
tàu tuần duyên tới Singapore vào năm 2017 – hiện diện hải quân cố định ở Đông
Nam Á lần đầu tiên trong hơn 20 năm [55]. Bên cạnh đó còn tăng cường luân phiên
lực lượng tại Philippines; đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Việt Nam, Malaysia và
một số quốc gia khác.

52
Tập trận và đào tạo: Mỹ tăng cường hiện diện thường lệ và liên tục ở Biển
Đông thông qua các hoạt động từ huấn luyện đào tạo cho đồng minh và thăm viếng
quân sự tới các nước trong khu vực, hợp tác tự do hàng hải và các hoạt động khác.
Mỹ cũng đang tăng về cả mức độ, cấp độ và quy mô của các cuộc tập trận trong khu
vực. Ở Đông Bắc Á, Bộ Quốc phòng Mỹ thực hiện các cuộc tập trận thường kỳ với
Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở Đông Nam Á, Bộ Quốc phòng Mỹ tổ chức hơn 400 sự
kiện với Philippines bao gồm tập trận Balikatan trong năm 2015, tập trận giám sát
biển với Indonesia (SEASURVEX) năm 2015, tập trận đổ bộ với Malaysia trong
năm 2014 và 2015, tăng các hoạt động đào tạo với Việt Nam gồm Hoạt động hợp
tác hải quân (NEA) tháng 3/2015. Trong sáu năm, hợp tác hải quân với Việt Nam
tăng từ thăm cảng biển đơn thuần tới các hoạt động dài ngày giúp các thủy thủ tăng
cường hiểu biết về hoạt động và thủ tục của mỗi bên. Ngoài ra, Mỹ còn tổ chức tập
trận đa phương như RIMPAC-2014 với sự tham gia của Trung Quốc, dự kiến mời
Trung Quốc tham gia RIMPAC-2016 với mức độ như năm 2014 [55]. Qua đây có
thể khẳng định rằng, với việc tăng cường sức mạnh an ninh – quân sự ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương, vị thế của Mỹ đã được cải thiện đáng kể, giúp đảm bảo
lợi ích và củng cố địa vị của Mỹ ở khu vực này.
Bộ Quốc Phòng Mỹ được đánh giá là đã có sự điều chỉnh trong việc tái cân
bằng nguồn lực, lực lượng phản ứng nhanh và thống nhất so với các bộ ngành khác.
Trước sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, hầu hết các
đồng minh quan trọng của Mỹ đều thể hiện sự ủng hộ đối với sự can dự lớn hơn của
Mỹ tại khu vực. Nhật Bản đã đồng ý cùng Australia và Mỹ phác thảo kế hoạch tăng
cường hợp tác quốc phòng giữa ba nước, gồm mở rộng việc tập trận chung. Trong
khi đó, phản ứng của các quốc gia Đông Nam Á đối với chiến lược châu Á – Thái
Bình Dương của Mỹ là không đồng nhất.
Philippines lo lắng về sự thiếu hiệu quả trong khả năng phòng thủ bên ngoài
khi căng thẳng trên biển với Trung Quốc đang leo thang, đặc biệt là sau khi xảy ra
va chạm giữa tàu của hai nước quanh khu vực tranh chấp bãi cạn Scarborough vào
tháng 4/2012, Philippines đã đồng ý củng cố đáng kể mối quan hệ quốc phòng song
phương với Mỹ, vốn đã bị suy yếu sau khi nhiều căn cứ quân sự chính của Mỹ ở

53
Philippines bị đóng cửa năm 1992. Kết quả là tàu hải quân Mỹ đã thực hiện nhiều
chuyến thăm căn cứ cũ ở Vịnh Subic, và nhiều cuộc tập trận chung (bao gồm cả
triển khai nhanh máy bay tuần tra hàng hải P-3 của Mỹ) và Mỹ đã cung cấp thêm
thiết bị quân sự bổ sung. Mỹ cũng đang giúp Philippines thành lập một trung tâm
giám sát bờ biển quốc gia nhằm nâng cao khả năng nhận biết về các mối đe dọa đối
với lợi ích hàng hải của Philippines.
Từ tháng 1-2/2012, Thái Lan đã tổ chức cuộc tập trận thường niên mang tên
Hổ mang vàng, đây là cuộc tập trận đa quốc gia quy mô lớn nhất trên thế giới với sự
tham gia của 9.000 lính Mỹ, 3.600 lính Thái Lan cùng với một số ít binh lính đến từ
Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, Singapore và Hàn Quốc [66]. Mặc dù Mỹ đã nỗ lực
tăng cường mối quan hệ an ninh với Thái Lan, bất chấp mối lo ngại của Thái Lan về
sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông làm tổn hại các quốc gia thành viên
ASEAN, chính sách đối ngoại của Thái Lan tiếp tục theo đuổi xu hướng truyền
thống là “gió chiều nào xoay chiều đấy”. Bởi Thái Lan trong khi vẫn tiếp tục duy trì
quan hệ với Mỹ bằng một hiệp ước an ninh, nhưng trên thực tế lại hợp tác chặt chẽ
về kinh tế, chính trị và quân sự với Trung Quốc, chẳng hạn: vào tháng 4, Thủ tướng
Yingluck đã ký kết một loạt các thỏa thuận với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo,
nâng quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược” ba tháng trước khi Thái
Lan đảm nhận vai trò điều phối các mối quan hệ của ASEAN với Trung Quốc. Vào
tháng 6, nỗi lo sợ làm phật lòng Trung Quốc của Chính phủ Thái Lan đã buộc
NASA từ bỏ kế hoạch triển khai máy bay nghiên cứu khí quyển U-2 tại sân bay U-
Tapao. Mối quan hệ được tăng cường với Trung Quốc còn bao gồm cả vấn đề quốc
phòng: Tháng 4, một phái đoàn quân sự hùng hậu do Bộ trưởng Quốc phòng
Sukumpol Suwanatat dẫn đầu đã tới thăm Trung Quốc và gặp người đồng cấp
Trung Quốc. Tháng 9/2012, Thái Lan đã công bố dự án mua vũ khí trong đó Thái
Lan sẽ sử dụng công nghệ của Trung Quốc để phát triển một hệ thống phóng nhiều
tên lửa có điều khiển.
Singapore không phải là đồng minh của Mỹ, nhưng mối quan hệ an ninh và
quốc phòng với Mỹ, được mở rộng và hệ thống hóa theo một hiệp định khung chiến
lược ký từ năm 2005, trên nhiều bình diện lại gần gũi và thân cận Mỹ hơn so với

54
Philippines và Thái Lan. Việc triển khai hải quân Mỹ đến Singapore đã được mở
rộng đáng kể trong năm 2013, với sự xuất hiện của tàu chiến đấu ven biển (LCS)
đầu tiên; bốn chiếc tàu như vậy sẽ hoạt động ở Singapore đến năm 2017.
Các quốc gia Đông Nam Á chủ chốt khác thậm chí còn thận trọng hơn khi đáp
lại những vấn đề an ninh cốt lõi của chiến lược tái cân bằng của Mỹ. Việt Nam,
giống Philippines, là một “nước ở tuyến đầu” ở Biển Đông, nơi mà Việt Nam đang
có tranh chấp quyết liệt với Trung Quốc, không chỉ về quần đảo Trường Sa, mà cả
Hoàng Sa và những vấn đề khác, và đã có một cuộc chiến với Trung Quốc vào năm
1979. Mặc dù trong lịch sử đã diễn ra cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai với
Mỹ, Việt Nam rõ ràng thấy có lợi thế khi Mỹ quay lại Đông Nam Á nếu như sự trở
lại này giúp kiềm chế hành vi của Trung Quốc. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam
không mong muốn tiếp tục làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với Trung Quốc hơn
nữa bằng việc phát triển mối quan hệ quân sự gần gũi hơn với Mỹ, và đã tiếp tục
hạn chế tàu của Hải Quân Mỹ cập cảng Việt Nam trong khi Mỹ ngày càng mong
muốn trở lại Vịnh Cam Ranh. Điều này được chứng minh thông qua chuyến thăm
của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Panetta đến cảng này vào tháng 6/2012.
Malaysia và Indonesia là hai quốc gia có người Hồi giáo chiếm đa số, nơi có
các trào lưu chính thống Hồi giáo, chống chủ nghĩa phục quốc Do Thái, chủ nghĩa
dân tộc mạnh mẽ và chủ nghĩa trung lập là những yếu tố chính của các cuộc tranh
luận chính trị. Mặc dù có khuynh hướng thân phương Tây nói chung, các chính phủ
của những nước này phải cẩn thận trong các mối quan hệ của họ với Mỹ vì lo sợ bị
mất đi sự ủng hộ của các cử tri quan trọng trong nước. Quan hệ an ninh và quốc
phòng của Mỹ với Malaysia vẫn còn hạn chế.
Tháng 11/2011, Tổng thống Obama và Tổng thống Indonesia Susilo Bambang
Yudhoyono đã tái khẳng định cam kết của họ về “đối tác toàn diện” song phương
đưa ra một năm trước đó. Rõ ràng là mối quan hệ với Mỹ đã tạo thành một phần
quan trọng của ngoại giao quốc tế ngày càng tự tin của Indonesia. Tuy nhiên, những
lợi ích chiến lược của đối tác này đối với Mỹ có thể bị hạn chế.
Về lâu dài, một khả năng gây tò mò là Mỹ có thể phát triển các mối quan hệ an
ninh với một Myanmar đang cải cách. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Panetta đã nói

55
rằng những cuộc thảo luận về việc “làm thế nào chúng ta có thể cải thiện quan hệ
quốc phòng của Mỹ với Myanmar” sẽ là “một phần quan trọng trong việc thúc đẩy”
những cải cách ở Myanmar. Trong bối cảnh mà Myanmar bị cho là đã rơi vào quĩ
đạo địa chính trị của Trung Quốc trước khi diễn ra quá trình cải cách mà Tổng
thống Thein Sein bắt đầu vào năm 2011, động thái như vậy có thể tượng trưng cho
một chiến thắng chiến lược quan trọng đối với Mỹ. Tuy nhiên, có vẻ rằng mối quan
hệ an ninh đáng kể chỉ có thể phát triển khi có một thay đổi lớn trong Chính phủ
Myanmar sau cuộc tổng tuyển cử năm 2015.
Các nhà hoạch định chiến lược trên khắp khu vực Đông Nam Á và cả khu vực
châu Á – Thái Bình Dương ý thức sâu sắc và quan ngại về tác động đối với những
định hướng chiến lược an ninh và đối ngoại của đất nước họ do sự thay đổi, phân bổ
quyền lực trong khu vực. Trong khi một số quốc gia có thể tận dụng được lợi ích từ
chiến lược chuyển hướng sang châu Á của Mỹ để làm rào cản chống lại sự trỗi dậy
của Trung Quốc. Tuy nhiên, số còn lại cũng nghi ngờ về tính ổn định lâu dài về vai
trò của Mỹ ở khu vực, và cũng không dễ dàng bị thuyết phục bởi những cam kết về
khả năng tồn tại lâu dài của vai trò an ninh của Mỹ trong chiến lược này. Không
những vậy, chiến lược của Mỹ hiện nay bị coi là chủ yếu thiên về quân sự, do đó
một số quốc gia trong khu vực nhận định sự điều chỉnh chiến lược sang châu Á –
Thái Bình Dương là nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, nên đã có những
hạn chế trong sự phối hợp và hợp tác với Mỹ. Trong những trường hợp này, nhiều
nước Đông Nam Á đang còn để ngỏ các lựa chọn chiến lược của mình.
Về ngoại giao
 Về gia tăng ảnh hưởng tới các thể chế khu vực
Mỹ đã có nhiều bước đi nhằm gia tăng sự ảnh hưởng vào các thể chế khu vực,
chẳng hạn như việc tăng thêm một chức vụ Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn
đề đa phương trong Cục Đông Á – Thái Bình Dương (Bộ Ngoại giao) và bổ nhiệm
Đại sứ tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Mỹ cũng đã ký Hiệp ước
Hợp tác và Hữu nghị ASEAN, cử đại diện cấp cao hơn (cấp nhà nước) tới dự Hội
nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ở cấp ngoại trưởng tới dự Diễn đàn Khu vực
ASEAN (ARF). Năm 2012, bà Hillary Clinton cũng đã tham dự Diễn đàn các quốc

56
đảo Thái Bình Dương (PIF) và là quan chức cấp cao nhất của Mỹ tham dự diễn đàn
từ trước tới nay.
Ngoài ra, Mỹ theo đuổi một loạt các sáng kiến hợp tác với các thể chế đa
phương châu Á, trong đó có các vấn đề năng lượng, y tế thông qua Sáng kiến Hạ
lưu sông Mekong (LMI), đầu tư và thương mại thông qua APEC, tăng trưởng kinh
tế và biến đổi khí hậu thông qua ASEAN, tội phạm xuyên quốc gia và năng lượng
sạch thông qua EAS. Mỹ sẽ tiếp tục đẩy mạnh và nhân rộng các sáng kiến mới được
đề xuất tại diễn đàn APEC, chẳng hạn như lập quỹ tài trợ cải thiện tính liên tục của
nguồn cung sản phẩm, thành lập Nhóm làm việc về minh bạch và chống tham
nhũng. Bên cạnh đó, Mỹ sẽ tăng cường các nỗ lực hợp tác khu vực trong lĩnh vực
cứu trợ nhân đạo, khắc phục thiên tai và tìm kiếm cứu hộ, chẳng hạn như trong vụ
tìm kiếm máy bay mất tích tại Malaysia mới đây.
 Về củng cố đồng minh và xây dựng đối tác mới
Là một nhân tố trong chiến lược tại châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ đã tăng
cường và hiện đại hóa các liên minh song phương truyền thống và đẩy mạnh hợp
tác sâu rộng hơn với các đối tác đang nổi. Mục đích của cách tiếp cận này là để Mỹ
đối trọng với các mạng lưới đối tác đang tồn tại và tiềm tàng nổi lên tại khu vực
nhằm giải quyết các vấn đề khu vực hiệu quả hơn, đỡ tốn chi phí hơn so với đơn
thương độc mã giải quyết. Trên cơ sở hệ thống đồng minh hiện có, Mỹ đã và đang
thúc đẩy mô hình “trục bánh xe và nan hoa”, liên kết các liên minh và đối tác lại với
nhau tạo ra thực lực tốt hơn trong việc xử lý các thách thức chung. Để thực hiện mô
hình này, Mỹ đã và đang hỗ trợ các đối tác và các đồng minh khu vực phân bố
nguồn lực một cách hiệu quả hơn, phối hợp và hợp tác trong các lĩnh vực quan
trọng, chẳng hạn như an ninh hàng hải và khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên.
Cụ thể, sáng kiến hồi tháng 9/2013 về tham vấn chính thức liên quan đến Bộ
quy tắc ứng xử (COC) nhằm kiểm soát cách hành xử trên Biển Đông mang lại một
cơ hội để cải thiện và nâng cao năng lực của các đồng minh và đối tác. Bộ Ngoại
giao Mỹ cũng đã công bố gói trợ giúp hàng hải song phương và khu vực trị giá 32,5
triệu USD, trong đó có 18 triệu USD để cải thiện năng lực cho các đơn vị tuần tra
duyên hải của Việt Nam, sẽ giúp nâng cao thực lực của các đối tác [90]. Mỹ xác

57
định, hiện New Zealand và Nhật Bản đều muốn cải thiện các thực lực đổ bộ; Hàn
Quốc và Singapore muốn có máy bay Global Hawk; Indonesia muốn nâng cao thực
lực hậu cần và vận tải hàng không. Do đó, Mỹ đang và sẽ tiếp tục trợ giúp các đồng
minh và đối tác trong lĩnh vực này để tăng cường hợp tác khu vực trong lĩnh vực
hàng hải. Một giải pháp đang được giới chức Mỹ bàn thảo là đưa thêm các tàu khu
trục nhỏ tới các quốc gia đối tác trong khu vực nhằm giúp các nước này tăng cường
thực lực trên biển.
Có thể thấy, đến giai đoạn đầu của thế kỷ XXI, hầu hết các nước ở châu Á –
Thái Bình Dương có quan hệ tốt với Mỹ đều với mục đích vì hòa bình, ổn định và
hợp tác. Tất nhiên mỗi nước trong khu vực, bên cạnh các mối quan hệ song phương
với các nước lớn khác như Ấn Độ, Nga và Nhật Bản theo tính toán riêng của họ, có
lẽ điều đang tạo nên sự liên kết giữa các nước với Mỹ, về mặt chiến lược là mong
muốn tạo ra một thế cân bằng hơn so với một Trung Quốc đang “trỗi dậy hòa bình”
nhưng tạo nên không ít mối quan ngại. Sức mạnh quân sự và sự hiện diện của Mỹ
tiếp tục được một số nước trong khu vực đề cao trong đảm bảo an ninh, hòa bình
khu vực, đặc biệt là vai trò của Mỹ trong việc duy trì thế cân bằng lực lượng trước
sự trỗi dậy của các cường quốc khu vực như Trung Quốc. Tuy vậy, Mỹ chưa bao
giờ công khai cho rằng việc củng cố các liên minh quân sự song phương trong khu
vực là nhằm chống lại Trung Quốc hay bất cứ nước nào, và chắc chắn Mỹ sẽ không
đi theo hướng này trừ phi Trung Quốc có hành động đe dọa trực tiếp đến an ninh
quốc gia Mỹ và các đồng minh.
Mỹ hiện đang tập trung hỗ trợ và hợp tác với các đồng minh nhằm thực hiện
các mục tiêu chiến lược của mình. Hệ thống liên minh của Mỹ ở Đông Á là mạnh
mẽ và sâu sắc chưa từng có so với các thời kỳ trước đây. Năm đồng minh truyền
thống: Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Australia và Thái Lan là những đối tác
chiến lược của Mỹ ở cả bên trong lẫn bên ngoài khu vực do có chung quan điểm và
lợi ích. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là nơi Mỹ có nhiều đồng minh chiến
lược và lâu bền nhất.
Những chiến lược được triển khai của Chính quyền Tổng thống Barack Obama
cho thấy, có cách tiếp cận hòa giải và ngoại giao, lắng nghe hơn là áp đặt, sử dụng

58
ngoại giao hơn là quân sự, đa phương hơn là đơn phương. Chiến lược châu Á –
Thái Bình Dương của Mỹ hiện nay thể hiện tính liên tục với chính sách của chính
quyền trước, đó ưu tiên quan hệ với đồng minh và can dự với Trung Quốc. Mỹ đã
có những biểu hiện coi trọng hơn đối với khu vực thể hiện qua chuyến thăm của
Ngoại trưởng Mỹ Clinton tới Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia ngay
trong năm đầu tiên của chính quyền Obama. Mục tiêu của chuyến công du này là
trấn an các đồng minh và đối tác trong khu vực rằng, Mỹ sẽ tiếp tục cam kết với khu
vực và các đồng minh và muốn có một mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc.
 Về lĩnh vực xã hội dân chủ và nhân quyền
Mỹ xác định thúc đẩy kinh tế đi đôi với thúc đẩy nhân quyền khi thực hiện
chiến lược tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ sử dụng các lợi ích của quan
hệ đối tác kinh tế nhằm gia tăng ảnh hưởng với các quốc gia mà Mỹ cho là có thành
tích nghèo nàn về nhân quyền và quản trị dân chủ. Trong lĩnh vực can dự này, Mỹ
quan tâm hơn tới truyền thông và tự do Internet, tuy nhiên cũng tận dụng các
chương trình phát triển trong lĩnh vực nguyên tắc luật pháp, chấp pháp trên biển,
ngoại giao công, quan hệ hợp tác quân sự để thúc đẩy vấn đề nhân quyền. Trong
báo cáo tài khóa năm 2014, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đề xuất tăng 30% nguồn tài trợ
(98,6 triệu USD) cho các chương trình “Quản trị Công bằng và Dân chủ” tại khu
vực Đông Á – Thái Bình Dương. Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động thuộc Bộ
Ngoại giao Mỹ đã thành lập Văn phòng Đông Á – Thái Bình Dương năm 2013 và là
văn phòng nhận số tiền lớn nhất từ Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động để tăng
cường tài trợ cho các chương trình dân chủ, nhân quyền [90].
Mỹ lấy vấn đề dân chủ nhân quyền như một nguyên tắc cơ bản để thực hiện
chính sách đối ngoại của mình, dùng vấn đề này làm cái cớ để can thiệp vào công
việc nội bộ của các quốc gia khác. Mỹ đã từng rất nhiều lần nêu các vấn đề nhân
quyền và dân chủ ở châu Á bất cứ khi nào có cơ hội, đặc biệt là ở Trung Quốc,
Indonesia, Myanmar, Việt Nam và một số quốc gia khác. Chính sách này đã, đang
và sẽ vấp phải sự phản ứng quyết liệt của các nước, rất nhiều quốc gia đã chỉ trích
gay gắt việc Mỹ tiếp tục ban hành “Báo cáo tình hình nhân quyền tại các quốc gia”

59
hàng năm. Điều đáng nói là chính sách ngoại giao nhân quyền không chỉ vấp phải
phản ứng ở ngoài nước mà cả phản ứng của dư luận trong chính nước Mỹ.
Trong khi Mỹ phê phán các nước vi phạm các quyền dân chủ nhân quyền, thì
sự thực về tình trạng vi phạm nhân quyền của một bộ phận cán bộ công quyền Mỹ
vẫn chưa thực sự được cải thiện. Điều này đang làm xấu đi hình ảnh của nước Mỹ –
vốn vẫn được xem là thiên đường của tự do, dân chủ và là nước tự hào tôn trọng
nhân quyền hàng đầu thế giới.
Tiểu kết
Trong giai đoạn gần đây, đối mặt với những khó khăn trong nước và những
hậu quả của chính sách áp đặt và thiên về sức mạnh trước đây, Mỹ đã có những điều
chỉnh đáng kể về việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu. Sự
điều chỉnh chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một
chiến lược tổng thể bao gồm các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế và các biện pháp
cổ vũ dân chủ nhân quyền nhằm tạo dựng sự lãnh đạo và kiểm soát thế giới của
quốc gia này. Chiến lược này có ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia trong khu vực,
trong đó có Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, trong những năm qua, nước Mỹ đã
có những chuyển dịch mạnh mẽ cả trong lời nói và hành động, cả về chiến lược lẫn
chính sách theo hướng coi trọng khu vực châu Á – Thái Bình Dương hơn.
Thông qua chiến lược triển khai, Mỹ đã đạt được một số kết quả khả quan
giúp củng cố vị thế của Mỹ ở khu vực. Tuy nhiên, theo tôi chiến lược hướng trọng
tâm về châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ là chưa đủ mạnh và chưa thực sự rõ
ràng, bởi còn rất nhiều hoài nghi rằng liệu Mỹ có thực sự chuyển trọng tâm về khu
vực này hay không, hay trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ đã tuyên
bố về sự trở lại của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và liệu đây có phải
là chiến lược lớn mới hay chỉ là một sự hùng biện chính trị trong năm bầu cử Tổng
thống Mỹ?. Do đó, để chứng tỏ là một cường quốc Thái Bình Dương, Mỹ cần hành
động mạnh mẽ hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực.

60
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN LƢỢC VÀ MỘT SỐ
HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
3.1. Tác động của chiến lƣợc đến Đông Nam Á và Việt Nam
3.1.1. Đối với Đông Nam Á
Đông Nam Á là một khu vực có vị trí và tầm chiến lược toàn cầu và là một
mắt xích trung tâm trong chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Vì vậy,
Mỹ đã đặt ra những mục tiêu cụ thể, thể hiện suy tính của Mỹ tại khu vực. Những
toan tính chiến lược của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á vừa tạo ra những thời
cơ, thuận lợi nhưng đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức, khó khăn đối
với các nước trong khu vực.
 Mặt tích cực:
Trong những năm qua, Mỹ tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển
trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á là
một trong những trọng điểm chiến lược. Việc Mỹ quay trở lại và thúc đẩy sự hợp
tác an ninh, chính trị và kinh tế với khu vực là nhân tố góp phần duy trì cân bằng
chiến lược và quyền lực tại khu vực, hạn chế sự ảnh hưởng quá mức của Trung
Quốc, ngăn chặn hoặc làm giảm nguy cơ nạn cướp biển và khủng bố quốc tế lan
rộng, thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương giữa các thành viên ASEAN với
các đối tác bên ngoài, đồng thời cũng góp phần làm tăng tiến trình cải cách dân chủ
hóa ở khu vực Đông Nam Á.
Về kinh tế, sự quan tâm trở lại Đông Nam Á của Mỹ sẽ gia tăng các lợi ích hai
bên, đặc biệt khi Tổng thống Obama đặt mục tiêu khôi phục nền kinh tế lên hàng
đầu. Thúc đẩy kinh tế hai chiều cũng là nội dung nằm trong chiến lược cân bằng
của Mỹ đối với sự gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc tại khu vực. Sự
có mặt của Mỹ còn thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động thương mại, đầu tư và viện
trợ, tạo điều kiện cho các nước Đông Nam Á có thể thu hút được những tiềm năng
về vốn, khoa học – công nghệ của Mỹ cho sự phát triển kinh tế. Có thể đây là nhân
tố đầu tiên mở ra một thời kỳ hợp tác mới trong quan hệ giữa Mỹ và khu vực. Để
tăng cường phát triển quan hệ kinh tế với các nước ASEAN, Chính quyền Mỹ triển
khai “Kế hoạch hợp tác ASEAN”, giúp tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế, thúc đẩy

61
kinh tế phát triển, đặc biệt là sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chính
quyền Obama hiện nay cũng đưa ra lời hứa giúp đỡ cho kế hoạch lập ra “Cộng
đồng kinh tế ASEAN” để trở thành một thị trường chung và cơ sở sản xuất chung
của các nước ASEAN cuối năm 2015.
Gần đây, Mỹ đẩy mạnh hơn nữa hợp tác kinh tế với các nước ASEAN, đã ký
các FTA song phương với một số nước, ký TIFA với nhiều nước, mở rộng các Hiệp
định buôn bán tự do giữa Mỹ và các quốc gia thành viên, từng bước làm sâu sắc
thêm mối quan hệ nhiều chiều, đa diện với các thành viên ASEAN. Mỹ đã thông
qua vai trò và uy tín của ASEAN để củng cố và tăng cường vai trò chủ đạo Mỹ ở
khu vực Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương. Bởi ASEAN đã và đang phát
huy vai trò chủ đạo trong các công việc của khu vực Đông Á, châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), cũng như hợp tác liên kết khu vực Á – Âu (ASEM). Với vị trí và
vai trò quan trọng của ASEAN như vậy, Mỹ coi việc phát triển quan hệ với các
nước ASEAN là một trong những trọng điểm trong chiến lược châu Á của mình,
Mỹ ra sức thâm nhập ASEAN trong các lĩnh vực chính trị, quân sự và kinh tế, cố
gắng đưa ASEAN vào chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mục đích của Mỹ là thúc đẩy
nền kinh tế các nước ASEAN phát triển nhằm ủng hộ Mỹ trong các diễn đàn khu
vực như APEC, ARF, ASEM làm tăng vai trò và uy tín của Mỹ ở khu vực. Sự hợp
tác phát triển kinh tế không chỉ thúc đẩy sự thịnh vượng chung của khu vực mà còn
mang lại nhiều thuận lợi cho từng quốc gia Đông Nam Á nói riêng. Ngoài ra, Mỹ
còn tham gia tích cực vào các công việc của khu vực như viện trợ, cứu hộ nhân đạo
ở Indonesia, Thái Lan…
Bên cạnh đó, Mỹ cũng cho rằng, kiểm soát được Đông Nam Á sẽ đảm bảo sự
thông suốt của tuyến đường vận tải trên biển đi qua khu vực này. Bởi gần một nửa
tàu buôn trên toàn cầu và phần lớn nhập khẩu dầu mỏ của nhiều nước Đông Á được
xuất phát từ vùng Vịnh [40], đều phải đi qua vùng biển Đông Nam Á. Đường giao
thông hàng hải trên biển Đông Nam Á qua eo biển Malacca là mạch máu kinh tế
sống còn của Mỹ, Nhật Bản và các nước Đông Á khác. Do đó kiểm soát được
đường biển này là điều kiện cần thiết để Mỹ phát triển và thao túng đường tiếp tế
của các nước châu Á – Thái Bình Dương. Xét từ góc độ quân sự, đường biển này đã

62
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc quân đội Mỹ tiến vào Tây Thái Bình
Dương tới Ấn Độ Dương và Vịnh Pécxích.
Sự quay trở lại của Mỹ đánh dấu sự góp mặt đầy đủ của các nước lớn trên bàn
cờ chiến lược ASEAN. Đông Nam Á liệu có biết nắm giữ thời cơ vàng khi mà các
cường quốc sử dụng kinh tế như một công cụ hữu hiệu, lấy hỗ trợ và đầu tư làm
phương tiện lôi kéo và tranh thủ ảnh hưởng của mình ở khu vực.
Về an ninh – quân sự, sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ còn có ý nghĩa quan
trọng trong giải quyết an ninh khu vực. Việc Mỹ tích cực tham gia các hoạt động ở
khu vực Đông Nam Á, trên mức độ nhất định sẽ đóng vai trò tích cực đối với việc
giữ gìn ổn định an ninh và hòa bình ở khu vực. Thực tế, Mỹ đang chung tay với các
nước ASEAN trong giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền
thống: tranh chấp lãnh thổ (vấn đề Biển Đông), biến đổi khí hậu, chống chủ nghĩa
cực đoan bạo lực, ngăn ngừa phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ….
Sự quan tâm nhiều hơn đối với Đông Nam Á của Mỹ giúp các nước Đông
Nam Á có thêm cơ hội để “mặc cả” có lợi cho độc lập dân tộc và phát triển. Hiện
nay, Mỹ và các nước lớn nhìn nhận Đông Nam Á có vai trò quan trọng hơn trên bàn
cờ địa chiến lược thế giới và đều tranh giành ảnh hưởng ở khu vực này. Sự tranh
giành ảnh hưởng của các nước lớn đã làm nóng lên các mối quan hệ quốc tế song
phương, đa phương trong khu vực, tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của
ASEAN và các nước thành viên. Hơn nữa, việc Mỹ công nhận ASEAN đóng vai trò
quan trọng đã nâng cao vai trò, uy tín của ASEAN, cũng như của các nước thành
viên, góp phần giữ vững an ninh khu vực.
Đông Nam Á là khu vực có sự cạnh tranh chiến lược của các nước lớn như
Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Và một trong những đặc điểm nổi bật của tình hình
chính trị Đông Nam Á những năm gần đây là chiều hướng gia tăng sự tranh giành
ảnh hưởng và quyền lực giữa các nước lớn ở khu vực. Trong khi đó, mục tiêu cốt
lõi trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ sau chiến tranh Lạnh là ngăn chặn sự
xuất hiện của các nước lớn có khả năng thách thức và làm lung lay địa vị siêu
cường duy nhất của Mỹ, đồng thời Mỹ muốn thiết lập một trật tự thế giới mới ở khu
vực Đông Nam Á, mà ở đó không cho phép bất kỳ quốc gia nào vượt qua Mỹ.

63
Việc Mỹ thay đổi phương thức can dự vào Đông Nam Á sẽ tạo ra thách thức
mới cho Trung Quốc về vấn đề ngoại giao khu vực Đông Nam Á, khiến Trung
Quốc sẽ phải thận trọng trong cách hành xử và giải quyết các vấn đề khu vực, cũng
như trong quan hệ với các nước ASEAN. Đặc biệt trong vấn đề Biển Đông, từ trước
đến nay Trung Quốc chỉ muốn giải quyết vấn đề này bằng đường lối song
phương theo cách có lợi cho Trung Quốc và luôn chỉ trích Mỹ muốn quốc tế hóa
vấn đề mà Trung quốc cho là vấn đề khu vực. Đó là lợi ích đầu tiên đối với các
quốc gia vừa và nhỏ trong khối ASEAN có va chạm với Trung Quốc. Đối với
các quốc gia còn lại, sự quan tâm đến khu vực này hơn của Mỹ là cơ hội để họ
thực thi chính sách ngoại giao bình đẳng giữa các nước lớn, theo đuổi tối đa hóa
lợi ích an ninh và kinh tế.
Về ngoại giao
Ngay sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Obama đã nhanh chóng điều chỉnh
chiến lược và triển khai chính sách đối ngoại mới theo hướng linh hoạt, mềm dẻo,
thực dụng, coi trọng chủ nghĩa đa phương, sức mạnh tập thể nhằm tạo ra một mô
hình quan hệ đối tác mở rộng với sự lãnh đạo của Mỹ. Trọng tâm của chiến lược
mới là sử dụng “sức mạnh thông minh” với ưu tiên hàng đầu là các công cụ ngoại
giao và phát triển. Chính sách đối ngoại mới của Mỹ với khu vực ASEAN và
Việt Nam cũng được triển khai tích cực theo hướng đó. Có thể thấy, dưới thời Tổng
thống Barack Obama, nước Mỹ có cách nhìn toàn diện hơn về bối cảnh chung khu
vực châu Á – Thái Bình Dương và những hệ lụy quốc tế về cân bằng quyền lực tại
khu vực này. Sự phát triển của ASEAN cùng với những thách thức an ninh khu vực
đã thúc đẩy Mỹ thắt chặt hơn mối quan hệ với ASEAN, coi đây là chìa khóa hữu
hiệu và là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ với các nước lớn trong khu
vực. Chính vì vậy, Mỹ rất quan tâm và gia tăng các cam kết và hoạt động ngoại giao
trong khu vực này. Do đó, Mỹ thường xuyên cử các quan chức cấp cao tới thăm các
nước trong khu vực và tăng cường sự can dự của Mỹ vào cấu trúc chính trị của khu
vực Đông Nam Á.
Từ đầu năm 2009, Chính quyền Tổng thống Barrack Obama đã khẳng định lại
và có các bước đi hết sức tích cực, làm sâu sắc thêm sự gắn kết của Mỹ với khu vực

64
châu Á – Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng. Đầu tiên là việc Ngoại
trưởng Hillary Clinton thăm một số nước Đông Nam Á và Ban Thư ký ASEAN
tháng 2/2009; ký Nghị định thư về việc Mỹ tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp
tác ở Đông Nam Á (TAC) tháng 7/2009, thể hiện cam kết chính trị cao nhất của Mỹ
với ASEAN và đóng góp vào hòa bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á; đề xuất
và tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ – 4 nước Hạ nguồn Sông Mê Kông
(CLTV) lần đầu tiên tháng 7/2009.
Quan hệ ASEAN – Mỹ được nâng lên tầm cao mới với việc tổ chức Hội nghị
các nhà Lãnh đạo ASEAN – Mỹ lần thứ nhất ngày 15/11/2009 tại Singapore. Tại
Hội nghị, các nhà Lãnh đạo đã trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và toàn
cầu cùng quan tâm và thông qua Tuyên bố chung ASEAN – Mỹ Tăng cường quan
hệ đối tác vì Hòa bình Bền vững và Thịnh vượng. Đồng thời, hai bên cam kết tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực trao đổi giáo dục, khoa học và công nghệ, lao
động, hợp tác phát triển, hợp tác chống khủng bố quốc tế, những nỗ lực trong việc
đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs), thu hẹp khoảng cách, chống
phổ biến vũ khí và giải trừ quân bị, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong khu vực,
nghiên cứu tác động khí hậu và phát triển, thực hiện và các chính sách và các biện
pháp thích hợp. Tại Hội nghị, Tổng thống Mỹ tuyên bố chính sách của Mỹ cam kết
tăng cường với ASEAN, coi đây là một đối tác quan trọng trong việc thúc đẩy hòa
bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực Đông Nam Á.
Ngay trong tháng 01/2010, Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton đã có chuyến
thăm các nước Papua New Guinea, Australia, New Zealand, nhằm: (1) Xác định
tầm quan trọng của vành đai chiến lược châu Á – Thái Bình Dương ngăn chặn ảnh
hưởng của Trung Quốc; (2) Tái khẳng định sự trở lại châu Á – Thái Bình Dương
của Mỹ và “tạo sự tin tưởng, trấn an” ASEAN với các cam kết của Mỹ; (3) Chuẩn
bị cho các chuyến công du của Tổng thống Obama năm 2010, trong đó có ASEAN;
(4) Củng cố và thắt chặt quan hệ đồng minh với Australia, New Zealand; triển khai
hợp tác toàn diện của Mỹ đối với các đối tác trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương ; (5) Thảo luận việc chuẩn bị nội dung cho cuộc gặp về Đối tác xuyên Thái
Bình Dương dự kiến tổ chức vào tháng 03/2010 [63].

65
Tại Hội nghị các nhà Lãnh đạo ASEAN – Mỹ ngày 18/11/2011 tại Bali,
Indonesia, hai bên đã thông qua Kế hoạch hành động cho giai đoạn mới 2011-
2015 nhằm triển khai Quan hệ đối tác tăng cường ASEAN – Mỹ vì Hòa bình Bền
vững và Thịnh vượng. Kế hoạch hành động này nhằm tăng cường và nâng cao quan
hệ đối tác ASEAN – Mỹ lên tầm chiến lược cũng như đối phó với những thách thức
khu vực và toàn cầu đang nổi lên.
ASEAN – Mỹ, nhất trí nâng quan hệ Đối thoại lên thành Đối tác chiến lược,
đồng thời thúc đẩy quan hệ đối tác tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực chính trị,
an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội; Mỹ cam kết tiếp tục thúc đẩy quan hệ và hợp tác
với ASEAN, coi đây là ưu tiên chính sách của Mỹ ở khu vực, ủng hộ vai trò trung
tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình và trong các cơ chế do
ASEAN khởi xướng. ASEAN khuyến khích Mỹ tăng cường hỗ trợ ASEAN xây
dựng Cộng đồng, đẩy mạnh quan hệ kinh tế, hợp tác về khoa học công nghệ, giáo
dục; thúc đẩy hợp tác đối phó dịch bệnh, hợp tác khu vực Mêkông, an ninh năng
lượng, quản lý thiên tai, và biến đổi khí hậu. ASEAN – Mỹ đánh giá cao các kết quả
hợp tác tích cực trong việc thực hiện Kế hoạch Hành động ASEAN – Mỹ giai đoạn
2011-2015 và sớm hoàn tất nội dung Kế hoạch Hành động ASEAN–Mỹ giai đoạn
2016-2020, triển khai sáng kiến Gắn kết Kinh tế mở rộng (E3); đẩy mạnh hợp tác
kết nối với ASEAN thông qua Sáng kiến Kết nối ASEAN – Mỹ. ASEAN
và Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của quan hệ đối tác ASEAN –
Mỹ trong việc đóng góp cho hòa bình, ổn định, an ninh và thịnh vượng ở khu vực.
Trên cơ sở kết quả đạt được, ASEAN và Mỹ sẽ tiếp tục mở rộng và tăng cường hiệu
quả hợp tác nhằm đưa quan hệ đối tác hai bên lên tầm cao mới, đi đôi với việc triển
khai hiệu quả các dự án ưu tiên và huy động nguồn lực hỗ trợ ASEAN xây dựng
thành công Cộng đồng, gia tăng kết nối, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục, và giải
quyết các thách thức chung như an ninh năng lượng, quản lý nguồn nước bền vững,
đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai, bệnh dịch, chống tội phạm
xuyên quốc gia (buôn người, tội phạm mạng, chống cướp biển). Hai bên cũng sẽ
tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ Sáng kiến hợp tác giữa Mỹ và các nước
Hạ nguồn sông Mêkông (LMI).

66
 Thách thức
Việc Mỹ dồn trọng tâm vào khu vực Đông Nam Á cũng đã đặt ra những thách
thức to lớn đối với ASEAN.
Thứ nhất, sự tái can dự và gia tăng hiện diện của Mỹ ở Đông Nam Á đã gây ra
những phản ứng không thống nhất từ các nước ASEAN. Bởi các quốc gia thành
viên ASEAN có sự đa dạng về lịch sử, hệ thống chính trị và tầm nhìn quốc tế và
luôn có nhiều quan điểm khác nhau giữa các quốc gia cũng như những tranh luận
trong nội bộ mỗi quốc gia về vai trò của Mỹ trong khu vực. Không những vậy, sự
phức tạp này còn thể hiện ngay cả đối với hai đồng minh hiệp ước chính thức của
Mỹ là Philippines và Thái Lan. Chính vì vậy đã tạo ra những điều khó xử trong nội
bộ ASEAN và quan hệ giữa ASEAN với các đối tác chính khác. Cho nên, các nước
cần đảm bảo cân bằng giữa một bên là ủng hộ Mỹ, với một bên là duy trì sự đoàn
kết trong nội khối.
Thứ hai, sự gia tăng hiện diện của Mỹ có thể làm tăng thêm cuộc chạy đua vũ
trang trong khu vực. Trong thời gian qua, Mỹ đã không ngừng gia tăng lực lượng để
can dự vào vùng biển Đông Nam Á, nhất là quanh khu vực eo biển Malacca và Biển
Đông. Mỹ cho rằng nguy cơ đối với Đông Nam Á không còn là lý thuyết, bởi vậy,
Mỹ đã đề xuất với Singapore, Malaysia và Indonesia triển khai lực lượng để giúp
bảo vệ nhanh chóng và hiệu quả eo biển Malacca. Mỹ còn đề xuất Sáng kiến an
ninh hàng hải khu vực (RMSI) nhằm chia sẻ thông tin tình báo và hợp tác hải quân
chống những mối đe dọa xuyên quốc gia.
Xu hướng chạy đua vũ trang không chỉ làm cho nhiều nước ASEAN phải tăng
chi phí quốc phòng, làm ảnh hưởng đến phát triển và hội nhập kinh tế, mà còn tạo
điều kiện cho các nước can thiệp nhiều hơn vào khu vực, gia tăng liên minh, liên
kết, tập hợp lực lượng có lợi cho họ nhằm thực hiện mục tiêu địa chính trị của mình.
Điều này đã và đang tác động mạnh mẽ đến tính tương đối độc lập và trung lập của
ASEAN trong quan hệ với các nước lớn, cụ thể là đến chiến lược cân bằng ảnh
hưởng mà ASEAN đang theo đuổi [11]. Rõ ràng việc tái can dự và gia tăng hiện
diện của Mỹ ở Đông Nam Á đã tác động sâu sắc đến cục diện chính trị và hợp tác
an ninh của khu vực.

67
Thứ ba, vấn đề dân chủ và nhân quyền cũng là một trong những thách thức đối
với Đông Nam Á, vấn đề này tiếp tục là rào cản cho quan hệ giữa Mỹ và các quốc
gia ASEAN. Điều không được hoan nghênh cho sự quay trở lại của Mỹ là nước này
thông qua dân chủ và nhân quyền gây ảnh hưởng tới công việc nội bộ của các quốc
gia Đông Nam Á, áp đặt giá trị Mỹ – biểu tượng cho sự khác biệt Đông – Tây một
cách cứng nhắc và rập khuôn. Mặc dù có những điều chỉnh trong chính sách, nhưng
Mỹ vẫn đang ngày một gia tăng sức ép về chính trị đối với các nước ASEAN, ảnh
hưởng đến an ninh chính trị và chủ quyền quốc gia trong khu vực. Trong khi phát
triển quan hệ chính trị gần gũi với ASEAN, Mỹ vẫn lấy mô hình về tự do, dân chủ,
nhân quyền của mình để áp đặt cho các nước Đông Nam Á, gắn phát triển quan hệ
và cung cấp viện trợ với dân chủ và nhân quyền, ủng hộ các Tổ chức phi chính phủ
để thực hiện ý đồ can dự của Mỹ khi cần thiết.
Thứ tư, đối với cơ chế an ninh chung của ASEAN (diễn đàn ARF), Mỹ muốn
xây dựng ARF theo mô hình tổ chức an ninh châu Âu (OSCE) điều này có khả năng
làm giảm đi vai trò của ASEAN trong việc cải tiến phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của diễn đàn, tăng cường phối hợp chia sẻ thông tin và đề cao tính minh
bạch về chính sách, thúc đẩy hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh ở khu vực.
Như vậy, sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á vừa tạo ra
cho khu vực nhiều thuận lợi, nhưng đồng thời cũng không khỏi làm cho các nước
trong khu vực lo ngại về khả năng can thiệp của Mỹ.
3.1.2. Đối với Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và là một
thành viên tích cực của ASEAN. Với vị trí chiến lược nằm giữa Đông Bắc Á và
Đông Nam Á, có đường lãnh hải dài và chung đường biên giới trên bộ với Trung
Quốc, Lào và Campuchia. Việt Nam chiếm vị trí trung tâm của các hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hóa diễn ra khắp châu Á – Thái Bình Dương. Vì thế những biến
động trong khu vực dù ít hay nhiều cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến Việt Nam. Với việc Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại của mình bằng cách tăng
cường mở rộng quan hệ hợp tác đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ tác
động không nhỏ đến nhiều lĩnh vực của Việt Nam.

68
Nếu như châu Á – Thái Bình Dương là trọng tâm trong chính sách đối ngoại
của Mỹ dưới thời Tổng thống Barack Obama, thì Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam là một trong những tâm điểm của chính sách này. Việc Mỹ mở rộng quan hệ
hợp tác với các nước trong khu vực đã tạo ra cơ hội lớn cho việc Việt Nam trong
việc phát triển mối quan hệ song phương với siêu cường số một thế giới này. Trên
thực tế, nhưng năm qua mối quan hệ Việt – Mỹ đã được cải thiện đáng kể, kể từ khi
hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ năm 1995. Quan hệ hợp tác giữa hai
nước đã được thúc đẩy và tăng cường trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị
đến an ninh – quân sự và ngoại giao.
Về kinh tế
Điều chỉnh chiến lược hướng về châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ để thúc
đẩy quan hệ kinh tế Việt – Mỹ, tạo cơ hội mới để Việt Nam hội nhập sâu hơn với
khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thế giới bên ngoài, góp phần quan trọng vào
việc thúc đẩy cải cách ở trong nước theo nền kinh tế thị trường, đồng thời đẩy mạnh
thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường phát triển ngoại thương, mở rộng cửa cho sự
tiếp cận thị trường của các loại hàng hóa xuất khẩu chủ lực mà Việt Nam có lợi thế
so sánh và lợi thế cạnh tranh như dệt may, giày dép và các loại hàng nông sản, góp
phần đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với Mỹ, Việt Nam ngày càng trở thành một trong những quốc gia có tầm
quan trọng chiến lược ở khu vực Ðông Nam Á, có sự cam kết cao về thương mại
cũng như tăng cường sức mạnh cho khối ASEAN, đồng thời là một trong những đối
tác quan trọng trong việc hình thành và thiết lập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), góp phần quan trọng vào chiến lược mới của Mỹ nhằm khôi phục và
tăng cường vai trò của Mỹ là một cường quốc tại khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ Việt Nam – Mỹ ngày càng phát triển
sâu sắc, hai nước tăng cường thúc đẩy hợp tác trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, an
ninh – quốc phòng đến chính trị – ngoại giao, trong đó kinh tế là lĩnh vực hợp tác
nổi bật.
Thương mại, là điểm sáng nhất trong quan hệ hai nước, đến nay Mỹ đã trở
thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam, sau Trung Quốc và là thị trường

69
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều
liên tục tăng, năm 2014 đạt khoảng 36 tỷ USD. Việt Nam hiện là đối tác thương mại
lớn thứ 29 của Mỹ, tăng trưởng thương mại giữa hai nước hằng năm đạt 20% [61].
Quan hệ thương mại Việt Nam – Mỹ không ngừng phát triển, quy mô xuất
khẩu của Việt Nam sang Mỹ năm 2014 đã đạt gần 29 tỷ USD, tăng gấp 36 lần so
với năm 2000, trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất của khu vực ASEAN vào thị
trường Mỹ. Dự báo còn tăng mạnh trong các năm tới, đến năm 2020, xuất khẩu của
Việt Nam vào Mỹ đạt xấp xỉ 57 tỷ USD và chiếm 34,1% tổng giá trị xuất khẩu của
khu vực ASEAN vào thị trường Mỹ với chất lượng hàng hóa, giá trị gia tăng ngày
càng cao [50].
Biểu đồ 6: Thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ qua các năm (1992-2014)

(Nguồn: Theo Số liệu của Cục Kiểm Kê Hoa Kỳ – US Census Bureau)


Trong vòng 10 năm qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt bình quân
6,4%/năm, thuộc nhóm 3 nước có mức tăng trưởng đứng đầu khu vực châu Á. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 đạt 5,98%, cao hơn mục tiêu ban đầu đề ra (5,8%)
và cao hơn mức tăng 5,42% của năm 2013. Riêng 6 tháng đầu năm 2015, tốc độ

70
tăng trưởng đạt 6,28%, mức cao nhất của 6 tháng đầu năm trong vòng 5 năm qua,
khẳng định xu thế tốt hơn, bền vững hơn so với các năm trước [50].
Đầu tư, đến nay, Mỹ là một trong những nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam.
Tính đến tháng 2/2015, Hoa Kỳ có 729 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng nguồn
vốn khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 7 trong 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam. Quy mô vốn bình quân một dự án của Mỹ khoảng 15,35 triệu
USD; cao hơn so với mức bình quân chung một dự án đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam là 14,3 triệu USD/dự án. Tổng số nhà đầu tư Mỹ tính đến năm 2015 là 995 nhà
đầu tư (trong đó tổ chức đầu tư là 565 và cá nhân đầu tư là 430) chiếm tỷ trọng
tương đối lớn trong tổng số các nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp mã số giao dịch.
Về khối lượng, các nhà đầu tư Mỹ hiện đang nắm giữ hơn 5 triệu trái phiếu, hơn
8.500 chứng chỉ quỹ và hơn 1 tỷ cổ phiếu với tổng giá trị hơn 12 nghìn tỷ đồng trên
thị trường chứng khoán Việt Nam [50].
Biểu đồ 7: Đầu tƣ trực tiếp Mỹ vào Việt Nam tăng 175 lần qua 20 năm
Biểu đồ 8: Tỷ trọng đầu tƣ của các nhà đầu tƣ Mỹ tại Việt Nam theo lĩnh vực

(Nguồn: Số liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam)

71
Dòng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam vẫn tiếp tục đà tăng trưởng. Với việc
Việt Nam đẩy mạnh các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và tăng cường
các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang trở thành thị trường tiềm
năng thu hút các nhà đầu tư của Mỹ. Những sự kiện và con số nói trên cho thấy các
nhà đầu tư Mỹ rất quan tâm đến thị trường Việt Nam, các nhà đầu tư Mỹ có những
đóng góp và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế và tài chính Việt Nam.
Tuy nhiên, đầu tư gián tiếp của Mỹ vào Việt Nam hiện nay còn khá khiêm tốn so
với tiềm năng của nhà đầu tư Mỹ và so với khả năng hấp thụ vốn đầu tư của thị
trường Việt Nam. Do đó, mảng thị trường vốn vẫn còn nhiều dự án mới cho hợp tác
giữa hai nước, và còn nhiều tiềm năng cho các nhà đầu tư Mỹ vào khai thác.
Có thể thấy, các dự án đầu tư của Mỹ tại Việt Nam đã phát huy được những
thế mạnh của nhà đầu tư cũng như đáp ứng được yêu cầu của hai nước, mang đến
lợi ích cho cả hai bên. Nguồn vốn này đã góp phần tích cực vào công cuộc phát
triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và phát triển nguồn nhân lực.
ODA, về viện trợ phát triển chính thức (ODA), bên cạnh các dự án FDI, Mỹ
còn là một trong những nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Quy mô và
phạm vi hỗ trợ ODA của Mỹ tại Việt Nam được mở rộng sau khi Văn phòng Phát
triển Quốc tế (USAID) được thành lập tại Việt Nam (tháng 11/2000) và được nâng
lên thành Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam (năm 2005). Đặc biệt,
việc hai nước ký Hiệp định hợp tác kinh tế và kỹ thuật nhân chuyến thăm Hoa Kỳ
của Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 6/2005) đã tạo khung pháp lý để thực hiện các
dự án ODA của Hoa Kỳ tại Việt Nam, tạo tiền đề tăng nguồn vốn này cho Việt Nam
trong những năm tiếp theo. Năm 2009 - 2010, tổng viện trợ ODA của Hoa Kỳ cho
Việt Nam thông qua USAID là 141 triệu USD, năm 2010 - 2011 là 184 triệu USD
và năm 2011 - 2012 là 151 triệu USD [73]. Viện trợ của Hoa Kỳ vào Việt Nam
được phân ra thành nhiều lĩnh vực, trong đó tập chung chủ yếu vào phát triển kinh
tế và thương mại, môi trường, an ninh, quản trị; thông qua hình thức dự án song
phương hoặc dự án của các tổ chức phi chính phủ Mỹ.

72
Các chương trình, dự án ODA của Mỹ được triển khai đã góp phần thúc
đẩy, tăng cường quan hệ đầu tư và thương mại giữa hai nước. Bên cạnh đó, các
dự án này cũng tạo điều kiện giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ y tế, phòng
chống dịch bệnh; cải thiện công tác quản lý môi trường đô thị và công nghiệp tại
Việt Nam.
Nhằm tăng cường nguồn vốn ODA của Mỹ dành cho Việt Nam trong những
năm tới, hai nước đã ký Hiệp định hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật, tạo ra khung pháp lý
để thực hiện các dự án ODA của Mỹ tại Việt Nam. Ngoài ra, hai bên cũng tăng
cường xây dựng các chương trình, kế hoạch phù hợp với ưu tiên của Việt Nam
trong giai đoạn phát triển mới.
Cùng với ODA, Việt Nam đang khuyến khích huy động các nguồn lực khác từ
Hoa Kỳ, đặc biệt là hình thức hợp tác công tư (PPP). Việc sử dụng nguồn vốn này
không những giúp Chính phủ giảm nhẹ gánh nặng ngân sách hiện tại mà còn phối
hợp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA.
Mối quan hệ Việt Nam – Mỹ đã đạt nhiều thành tích đáng kể trong lĩnh vực
đầu tư, hợp tác phát triển. Với tinh thần hợp tác hữu nghị và ổn định, những thành
tựu tốt đẹp này sẽ là nền tảng vững chắc thúc đẩy mối quan hệ Việt Nam – Mỹ ngày
càng phát triển trong tương lai, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước.
Về an ninh - quân sự
Quan hệ hợp tác an ninh – quân sự giữa Việt Nam và Mỹ đã có những tiến
triển theo hướng cởi mở hơn, hợp tác nhiều hơn, cả trong quan hệ song phương, lẫn
các cơ chế, và các diễn đàn đa phương. Với việc Mỹ tích cực can dự vào khu vực đã
tạo điều kiện cho Việt Nam tăng cường hợp tác để nâng cao khả năng quốc phòng
của mình, bảo đảm an ninh quốc gia. Có thể thấy, nếu như trước đây, hợp tác an
ninh và quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ chủ yếu là tìm hiểu lẫn nhau thì đến nay
Việt Nam – Mỹ sẵn sàng tiến xa hơn và nhanh hơn trong lĩnh vực hợp tác này. Theo
đó, Mỹ hỗ trợ Việt Nam đào tạo quân đội, lực lượng gìn giữ hòa bình, cung cấp tàu
tuần tra cho Việt Nam.
Mở đầu cho giai đoạn hợp tác mạnh mẽ này là chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng năm 2008, đến tháng 10/2008, hai bên có cuộc họp song phương

73
đầu tiên về Đối thoại chính trị, an ninh và quốc phòng. Từ năm 2008 đến nay, các
tàu khu trục của Mỹ đã có nhiều chuyến thăm hữu nghị Việt Nam, nhằm thắt chặt
quan hệ ngoại giao hai nước. Tháng 6/2009, tàu khảo sát đại dương USNS Heezen
lần đầu tiên được phép tiến hành hoạt động tìm kiếm ở ngoài khơi Việt Nam. Riêng
tàu tên lửa dẫn đường USS John S. McCain từng ghé cảng Đà Nẵng vào năm 2010,
trong khuôn khổ hợp tác giữa Hạm đội Thái Bình dương (Mỹ) với Hải quân Việt
Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn là quan sát viên trong các cuộc tập trận hải quân
đa quốc gia do Hạm đội Thái Bình dương và Bộ chỉ huy Thái Bình dương của Mỹ
tổ chức. Hai bên cũng đã ký bản ghi nhớ thực hiện chương trình Megaports, theo đó
Mỹ hỗ trợ Việt Nam phát hiện và xác định vũ khí hủy diệt hàng loạt tại các hải cảng
thương mại. Việt Nam cũng đã tham gia Hội nghị thượng đỉnh về an ninh hạt nhân
đầu tiên tháng 4/2010 do Tổng thống Obama chủ trì.
Từ năm 2010 đến nay, hợp tác hai bên càng thân thiết hơn trên nền tảng bảo vệ
lợi ích và an ninh chung. Trước sự đe doạ của Trung Quốc đối với an ninh khu vực
và sự thách thức đối với Mỹ, chính quyền Tổng thống Barack Obama đã công bố
chính sách xoay trục, hay còn gọi là tái cân bằng về khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Chính các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông đã góp phần thúc đẩy
Việt Nam và Mỹ hợp tác sâu sắc hơn về an ninh – quân sự.
Chính quyền Tổng thống Obama hoan nghênh quyết định của Việt Nam tham
gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tháng 9/2011, hai nước ký biên
bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng (MOU) xác định 5 lĩnh vực thúc đẩy hợp tác
quốc phòng gồm hợp tác an ninh hàng hải; hợp tác tìm kiếm cứu nạn; các hoạt động
gìn giữ hòa bình; nhân đạo và cứu trợ thiên tai; hợp tác giữa các trường đại học
quốc phòng và các viện nghiên cứu. Hiệp định hạt nhân dân sự 123 chính thức có
hiệu lực từ ngày 10/9/2014, mở ra cơ hội lớn cho hợp tác giữa hai nước trong lĩnh
vực hạt nhân dân sự đầy tiềm năng [61].
Tháng 10/2014, Mỹ chính thức tuyên bố bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí
sát thương với Việt Nam và khả năng Mỹ sẽ sớm dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm này,
điều này phù hợp với đúng khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. Hai
bên cũng trao đổi nhiều đoàn quốc phòng, đáng chú ý là chuyến thăm Việt Nam lần

74
đầu tiên của Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Martin Dempsey
tháng 8/2014, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực cảnh sát biển với gói hỗ trợ 18
triệu USD Mỹ dành cho Việt Nam nhằm nâng cao năng lực hàng hải [74]. Đầu
tháng 6/2015, trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ
Ashton Carter, hai nước đã ký Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng,
làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. Các cuộc trao đổi hải quân
Mỹ – Việt được tiến hành thường niên, đánh dấu sự xích lại gần nhau giữa quân đội
hai nước trong bối cảnh căng thằng gia tăng tại Biển Đông.
Việt Nam – Mỹ tăng cường hợp tác về an ninh – quân sự, là để bảo vệ quyền
lợi của hai nước nói riêng, và sự phát triển của toàn khu vực nói chung. An ninh
trên toàn khu vực Biển Đông đang bị Trung Quốc đe doạ với các căn cứ quân sự mà
Trung Quốc đã thành lập ở Hoàng Sa, Trường Sa và những hành động lấn chiếm
khác trên Biển Đông. Đối với vấn đề Biển Đông, chính sách đối ngoại của Mỹ tập
trung vào việc bảo vệ lợi ích của Mỹ và đồng minh, vì thế Mỹ muốn thấy sự hợp tác
cùng phát triển chứ không phải là xung đột vũ trang xảy ra ở Biển Đông. Mỹ cũng
muốn duy trì quan hệ cân bằng với các nước ven biển ở khu vực. Đó cũng là lý do
tại sao Mỹ điều chỉnh chính sách từ “không can dự” thành “can dự một phần” và
quan tâm hơn đến vấn đề Biển Đông. Sự can thiệp có mục đích này của Mỹ đã tạo
ra thế cân bằng trong khu vực, giúp cho Việt Nam có một đòn bẩy chiến lược để
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông [40].
Cùng với việc Mỹ có nhiều tiếng nói khẳng định lợi ích của mình tại vùng biển
Đông Á, phủ nhận các cơ sở tuyên bố chủ quyền vùng lãnh hải và vùng biển của
Trung Quốc và các cam kết của Mỹ sẽ hiện diện ở đây là những tín hiệu tốt đối với
Việt Nam nói riêng cũng như các nước có tranh chấp chủ quyền trên biển với Trung
Quốc nói chung. Những hành động của Mỹ phần nào khiến cho thái độ hiếu chiến
của Trung Quốc trong vùng biển này phải thận trọng hơn chứ không còn hung hăng
như trước nữa. Do đó, việc củng cố hợp tác an ninh và quốc phòng Việt – Mỹ là
điều rất cần thiết.

75
Về chính trị - ngoại giao
Quan hệ Việt Nam – Mỹ đã và đang tiếp tục phát triển, mở rộng và đi vào
chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi ích cho cả hai nước. Chuyến
thăm chính thức Mỹ từ ngày 6-10/7/2015 và cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng ngày 7/7/2015
được đánh giá là “cột mốc lịch sử” trong khuôn khổ Quan hệ Đối tác toàn diện được
thiết lập giữa hai nước năm 2013. Quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – Mỹ được
xác lập trong chuyến thăm Mỹ tháng 7/2013 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
đây là một bước tiến mới nâng cấp quan hệ giữa hai nước từ bình thường hóa lên
đối tác toàn diện, hứa hẹn tạo ra nhiều cơ hội mới cho sự hợp tác cùng có lợi giữa
hai nước, đồng thời cũng là khuôn khổ quan trọng, định hướng cho quan hệ hai
nước. Trong khuôn khổ này, hai nước đề cao các nguyên tắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng hệ thống chính trị của nhau.
Quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam – Mỹ tạo ra các cơ chế hợp tác sâu rộng hơn
giữa hai nước trên 9 lĩnh vực ưu tiên gồm chính trị – ngoại giao, kinh tế – thương
mại, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, môi trường và sức khỏe, giải quyết
hậu quả chiến tranh, quốc phòng – an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người,
văn hóa – thể thao và du lịch [61].
Năm 2015 kỷ niệm 20 năm bình thường hóa được cả hai bên nhìn nhận là năm
có ý nghĩa quan trọng, đặt nền tảng cho những bước phát triển thực chất và sâu rộng
hơn trong tương lai. Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sự
tiếp nối của một mối quan hệ ngày càng mở rộng hơn. Với sự phát triển liên tục và
sâu rộng trong quan hệ song phương trong 20 năm qua, cho tới nay giữa hai nước
đã thiết lập được 10 kênh đối thoại với mục đích xây dựng lòng tin cũng như xử lý
các thách thức và các vấn đề còn khác biệt; trong đó có các kênh đối thoại quan
trọng như Đối thoại về chính sách quốc phòng, Đối thoại chính trị – an ninh – quốc
phòng, Đối thoại châu Á – Thái Bình dương và Đối thoại về nhân quyền.
Cùng với việc phát triển quan hệ song phương, Việt Nam và Hoa Kỳ cũng đã
hợp tác ngày càng hiệu quả tại các diễn đàn đa phương như diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á – Thái bình dương (APEC), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị

76
Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao
Đông Á (EAS) và Liên hợp quốc. Mỹ xác định Việt Nam là một trụ cột trong hợp
tác của Hoa Kỳ với ASEAN, coi ASEAN và Việt Nam là một bộ phận quan trọng
trong chính sách tái cân bằng, duy trì an ninh, hòa bình, hợp tác và phát triển ở
Đông Nam Á nói riêng và châu Á – Thái Bình Dương nói chung.
Việt Nam và Mỹ cũng đã đẩy mạnh hợp tác trong các vấn đề khu vực và quốc
tế mà hai bên cùng quan tâm, đó là ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp
chủ quyền bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công
ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, mong muốn ASEAN và Trung Quốc sớm
xây dựng được Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC), bảo đảm duy trì hòa
bình, ổn định và thúc đẩy thịnh vượng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và
trên thế giới. Hai nước tích cực tham gia đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) cùng với 10 quốc gia khác, mở ra một cơ hội lớn cho sự hợp
tác giữa hai nước trong khuôn khổ một thị trường rộng lớn với 800 triệu dân và
chiếm tới khoảng 40% thương mại cũng như GDP toàn cầu [62]. Trước thực tế
tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm
chạp, trong khi châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng
động nhất, thì việc thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ càng có ý nghĩa quan
trọng nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ cũng đặt ra không ít những thách
thức đối với Việt Nam. Trước hết, việc Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương
và Đông Nam Á có tác động đến mối quan hệ Mỹ – Trung, do đó việc xử lý mối
quan hệ của Việt Nam với hai nước lớn này như thế nào cho phù hợp với các lợi ích
kinh tế, chính trị, an ninh và chiến lược của Việt Nam là hết sức quan trọng. Mặt
khác, Mỹ muốn thông qua chính sách “can dự” để thúc đẩy tiến trình dân chủ, nhân
quyền ở Việt Nam, nhiều khía cạnh của quan hệ Việt – Mỹ đều chịu sự chi phối của
chính sách này. Đây là thách thức lớn đối với Việt Nam trong quan hệ với Mỹ.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc Mỹ coi Đông Nam Á là “mặt trận
thứ hai” của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu ít nhiều có tác động đến sự ổn

77
định của Việt Nam. Không những vậy, trong quan hệ giữa hai nước Việt – Mỹ vẫn
còn đang tồn tại không ít khó khăn, trở ngại như những vấn đề liên quan đến dân
chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam và
chính sách chống bán phá giá của Mỹ gây tác hại cho nhiều ngành hàng xuất khẩu
của Việt Nam như tôm, cá tra, cá ba-sa..., dẫn đến những thiệt hại không nhỏ cho
hàng triệu người lao động Việt Nam. Trước những khó khăn, trở ngại trên đòi hỏi
Việt Nam cần có những sách lược phù hợp cùng với quyết tâm lớn để vượt qua, tiến
tới thực hiện thành công các quan hệ đối tác toàn diện vì lợi ích của hai nước, vì hòa
bình, an ninh và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
3.2. Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam
Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong vành đai châu Á – Thái Bình Dương
đang phát triển kinh tế năng động. Với vị thế địa – chính trị ngày càng nâng cao bởi
sự phát triển của đất nước cũng như chính sách ngoại giao thân thiện, cởi mở, hội
nhập khu vực và quốc tế. Đồng thời là thành viên của ASEAN – một tổ chức khu
vực đang được nhiều cường quốc quan tâm, Việt Nam có không ít lợi thế để lựa
chọn cho mình một chiến lược tổng thể chung. Với Việt Nam, Mỹ vừa là một đối
tác quan trọng cần hợp tác, vừa là đối tượng đấu tranh cơ bản, lâu dài; quan hệ Việt
– Mỹ ngày càng được mở rộng tạo ra những cơ hội và thách thức mới đan xen trên
nhiều lĩnh vực. Trong tính toán chiến lược của Mỹ, Việt Nam là một nhân tố quan
trọng trong chính sách cân bằng chiến lược ở Đông Nam Á và quan hệ với Việt
Nam sẽ phục vụ lợi ích chiến lược lâu dài của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương.
Mục đích cuối cùng của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương là nắm quyền khống
chế và giữ vai trò lãnh đạo tại khu vực. Vì vậy, để đạt được mục đích của mình, Mỹ sẽ
thực hiện tất cả các biện pháp có thể, trong đó có cả lôi kéo, ràng buộc chặt chẽ các
nước ở khu vực thông qua một cơ chế phù hợp mà Mỹ đang tìm kiếm nhằm phục vụ
cho mục tiêu củng cố địa vị lãnh đạo trên toàn thế giới của Mỹ trong thế kỷ XXI. Điều
đó đặt ra những thách thức to lớn đối với một nước nhỏ như Việt Nam. Việt Nam sẽ
phải làm gì và có những bước đi như thế nào để không bị lôi kéo vào cuộc chiến cạnh
tranh quyền ảnh hưởng của Mỹ, giữ vững chủ quyền quốc gia và không bị lệ thuộc
vào nước lớn, nhưng vẫn đảm bảo phát triển kinh tế bền vững và ổn định.

78
Khi Mỹ tăng cường ảnh hưởng trong khu vực tất yếu sẽ dẫn tới cạnh tranh
quyền lợi giữa Mỹ và các nước lớn, đặc biệt là xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung
Quốc. Sự xung đột lợi ích này sẽ gây ra nhiều khó khăn cho Việt Nam. Nhiều nhà
phân tích quốc tế cho rằng Việt Nam đang bị kẹp giữa hai gọng kìm. Một bên là
nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc, một bên là siêu cường số một thế giới – Mỹ.
Vì vậy, Việt Nam cần phải có những chính sách phù hợp để không làm ảnh hưởng
tới mối quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là trong vấn đề biển Đông. Điều này đòi
hỏi Việt Nam phải có những bước đi vững chắc để bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo
của mình.
Bối cảnh quốc tế trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI sẽ có nhiều thời cơ
đan xen với thách thức. Châu Á – Thái Bình Dương vẫn sẽ là một khu vực phát
triển năng động, trong đó, Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Bên cạnh đó Mỹ
đang có những điều chỉnh quan trọng quan tâm nhiều hơn đến khu vực. Là thành
viên trong ASEAN, một mặt Việt Nam cần tận dụng sự phát triển của quan hệ Mỹ –
ASEAN để tiếp tục đổi mới và tái cấu trúc nền kinh tế và hội nhập đầy đủ vào nền
kinh tế khu vực và toàn cầu, mặt khác với vị trí địa chính trị trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương Việt Nam cần tận dụng tham gia vào cấu trúc an ninh, kinh tế khu
vực để tạo nên một tam giác năng động giữa Mỹ, Trung Quốc và ASEAN.
Đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đông, Việt
Nam không thể chỉ trông đợi vào một bên thứ ba, bởi ngay cả Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển cũng còn khó có thể xử lý vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển
Đông một cách rõ ràng, mà Việt Nam cần phải có những chính sách và giải pháp
phù hợp cho riêng mình. Việt Nam cần phải có những hành động trên cả ba cấp độ
trong nước, song phương và khu vực.
Ở trong nước, Việt Nam cần đảm bảo sự đoàn kết trong nước bằng việc tiếp
tục công khai cho nhân dân chính sách của Đảng và nhà nước trong vấn đề Biển
Đông, đặc biệt là mối quan hệ với Trung Quốc. Nỗ lực tăng cường sức mạnh quốc
gia; phát triển quan hệ hữu nghị, gắn bó, hợp tác toàn diện cùng có lợi với các nước
láng giềng, và khu vực; tăng cường quan hệ cùng có lợi, ràng buộc lợi ích với Trung
Quốc; tăng cường quan hệ đối tác chiến lược thực chất với các cường quốc khác;

79
tham gia tích cực vào các cơ chế đa phương của khu vực, lôi kéo sự tham gia tích
cực hơn của Mỹ và các cường quốc khác (Nga, Nhật Bản, Ấn Độ) vào các vấn đề
khu vực. Chiến lược này sẽ tạo ra một cục diện cân bằng và linh hoạt. Trong đó
Việt Nam có thể gia tăng được cả về thế và lực hiệu quả nhất, từ đó có khả năng bảo
đảm được thế đứng tốt nhất trong một châu Á – Thái Bình Dương đang trong giai
đoạn chuyển mình.
Ở cấp độ song phương, Trung Quốc vừa là nước láng giềng, vừa là nước lớn
có ảnh hưởng ngày càng tăng ở khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, Việt Nam lại
là một nước mà thế và lực còn hạn chế, quan hệ hai nước còn nhiều vấn đề do lịch
sử để lại. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc có tác động nhiều mặt và đa chiều
đối với Việt Nam. Lợi ích lớn nhất của Việt Nam là duy trì và phát triển quan hệ ổn
định, hữu nghị và toàn diện với Trung Quốc để tạo môi trường an ninh thuận lợi,
tạo thế và lực trong quan hệ với các đối tác khác trong khu vực.
Việt Nam và Trung Quốc đã có một cơ chế ngoại giao được xây dựng từ lâu,
như Ủy ban hỗn hợp ở cấp Bộ trưởng và các cuộc trao đổi lãnh đạo cấp cao. Vì vậy,
Việt Nam cần tích cực đối thoại với Trung Quốc để giải quyết vấn đề. Giải pháp
cho các tuyên bố về lãnh thổ, lãnh hải và vùng thềm lục địa mở rộng có thể sẽ đạt
được bởi một quyết định chính trị ở cấp cao nhất giữa hai nước. Trên cơ sở đó, Việt
Nam cần vừa tiếp tục tăng cường hợp tác với Trung Quốc trên tinh thần bình đẳng,
cùng có lợi, hoá giải những mâu thuẫn để duy trì môi trường hoà bình và củng cố
tình hữu nghị, quan hệ láng giềng, đồng thời vừa giảm thiểu những tác động tiêu
cực mà Trung Quốc đem lại.
Ở cấp độ khu vực, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã khẳng định
Việt Nam “chủ động tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng
đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữa vai trò
quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương [1].
Theo đó, Việt Nam cần tham gia tích cực vào các cơ chế này nhằm tăng cường sự
lớn mạnh vững chắc hơn nữa của ASEAN, lấy đó làm chỗ dựa trong việc đối phó
với các thách thức mà Trung Quốc tạo ra. Đồng thời, Việt Nam cần thúc đẩy sự
thống nhất lập trường của ASEAN trong các vấn đề khu vực và quốc tế có liên quan

80
đến Trung Quốc. Do đó, Việt Nam cần phối hợp với các thành viên ASEAN lôi kéo
Trung Quốc cùng tham gia và ràng buộc vào các cơ chế, các quy tắc của ASEAN. Ít
nhất, với việc Trung Quốc tham gia DOC, ký TAC và cùng các nước ASEAN đàm
phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), khả năng gây xung đột quân sự
của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian tới có thể được loại trừ.
Việt Nam cần coi việc hiện thực hóa và củng cố Cộng đồng ASEAN là một
trong những nhiệm vụ quan trọng, một trong những trụ cột chính của chính sách đối
ngoại. Việt Nam cũng cần tiếp tục tăng cường hợp tác và cộng tác với các quốc gia
ven biển khác như Malaysia, Philippines, Brunei và Indonesia. Ngoại giao khu vực
cần phải nhằm vào tạo áp lực gia tăng với Trung Quốc để thực hiện kiềm chế những
hành động đơn phương vi phạm luật pháp quốc tế của nước này. Hơn nữa, ngoại
giao khu vực cũng cần nhằm đưa ra tuyên bố của các bên ở Biển Đông về quy tắc
ứng xử.
Tóm lại, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam luôn mang tính hai mặt. Một
mặt, Mỹ vừa muốn quan hệ với Việt Nam để phục vụ cho chiến lược châu Á – Thái
Bình Dương và mang lại lợi ích kinh tế cho Mỹ. Đây sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam
tranh thủ những ưu thế của Mỹ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. Nhưng mặt
khác, Mỹ cũng muốn thông qua chính sách can dự để áp đặt giá trị Mỹ, thúc đẩy cải
cách kinh tế, chính trị và từ đó dẫn đến sự thay đổi ở Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam
cần có sách lược mềm dẻo, linh hoạt để đạt được hiệu quả cao trong quan hệ với đối
tác Mỹ, tạo điều kiện để quan hệ Việt – Mỹ phát triển ổn định, giúp thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế cũng như hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam.
Tiểu kết
Có thể nói, chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ đã có những tác
động lớn đến toàn khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính
sách này không những củng cố các mối quan hệ vốn có với các đồng minh trong
khu vực, mà còn cho phép Mỹ mở rộng những ảnh hưởng mới trong việc thúc đẩy
quan hệ với các đối tác mới, đồng thời góp phần không nhỏ đến hòa bình, ổn định
và phát triển của khu vực. Tuy nhiên xu hướng can dự đối với Đông Nam Á có
chiều hướng gia tăng.

81
Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương cuả Mỹ đang đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với mỗi nước trong khu vực, đặc biệt là các nước vừa và nhỏ trong
đó có Việt Nam. Vậy làm thế nào để giải quyết hài hòa mối quan hệ với các nước
lớn trên một cơ sở vững mạnh, đảm bảo an ninh quốc gia, giữ vững chủ quyền dân
tộc và phát triển kinh tế, đó là bài toán khó nhưng vô cùng quan trọng đối với các
quốc gia Đông Nam Á, trước sức mạnh và tham vọng bá chủ toàn cầu của Mỹ với
sự gia tăng ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc trong khu vực.

82
KẾT LUẬN
Sự điều chỉnh chiến lược tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm duy trì
vị thế bá chủ của Mỹ tại khu vực này cũng như trên toàn thế giới. Châu Á – Thái
Bình Dương được chọn làm trọng tâm trong điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ
cho thấy sự thay đổi trong quan điểm của Chính quyền Mỹ đối với xác định khu
vực ưu tiên. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế vận động và cục diện chính trị
thế giới hiện nay khi khu vực châu Á – Thái Bình Dương được xem là động lực
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới. Thậm chí thế kỷ XXI còn được xem là
thế kỷ Thái Bình Dương. Chiến lược mới của Mỹ cũng đã có sự thay đổi trong cách
tiếp cận các vấn đề. Mỹ hướng tới một tiếp cận đa phương mềm dẻo và linh hoạt
hơn trong việc giải quyết các vấn đề trong khu vực, nhằm duy trì và mở rộng ảnh
hưởng của mình.
Với những điều chỉnh chiến lược được tiến hành trong thời gian qua, nước Mỹ
đã nhận được những phản ứng tích cực từ các nước đồng minh và đa số các nước
trong khu vực. Tại Myanmar, những cải cách thể chế chính trị được thực hiện trong
những năm vừa qua, đặc biệt cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên (sau 25 năm) đã
được tổ chức thành công ngày 8/11/2015. Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân
chủ (NLD) của bà Aung San Kyi đã giành thắng lợi chấm dứt nhiều thập niên cầm
quyền của quân đội. Điều này tạo điều kiện thúc đẩy hội nhập, dân chủ tại
Myanmar, giúp quốc gia này xích lại gần với phương Tây hơn là với một số đồng
minh truyền thống. Trong các cuộc bầu cử tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai nước
đồng minh của Mỹ trong khu vực, cuối năm 2012 vừa qua, việc bà Park Geun-hye
và ông Shinzo Abe, hai nhân vật được cho là có đường lối đối ngoại cứng rắn với
Trung Quốc và Triều Tiên, trở thành tổng thống Hàn Quốc và thủ tướng Nhật Bản
có thể đem đến mối quan hệ gắn kết chặt chẽ hơn của hai nước này với Mỹ. Nhiều
quốc gia mong muốn sự quay trở lại của Mỹ sẽ góp phần kiềm chế tham vọng bành
trướng của Trung Quốc trong khu vực. Mỹ đã tạo ra được vành đai các căn cứ quân
sự trải rộng khắp khu vực từ Hawaii, Australia, Nhật Bản, Hàn quốc cho tới
Philippines… giúp Mỹ có thể chủ động khi các xung đột, chiến tranh bùng phát;
bảo đảm sự tự do lưu thông hàng hải, bảo đảm các lợi ích quốc gia của Mỹ và của

83
các nước đồng minh; tạo sức mạnh răn đe, kiềm chế với các đối thủ tiềm năng. Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, nếu được Quốc hội 12
nước thành viên thông qua sẽ giúp Mỹ thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực và gia
tăng ảnh hưởng tại khu vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện điều chỉnh chiến lược của Mỹ cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức. Thách thức đầu tiên, đến từ chính nội tại kinh tế – xã hội Mỹ. Đó
là nền kinh tế Mỹ đã bị suy yếu đáng kể do tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh
tế 2008, sự chia rẽ trong quốc hội Mỹ giữa hai Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ, buộc
Chính quyền Obama phải tập trung đối phó với các vấn đề trong nước, do vậy ưu
tiên cho chính sách đối ngoại sẽ giảm đi. Theo đạo luật kiểm soát ngân sách
(Budget Control Act), Chính phủ Mỹ sẽ phải cắt giảm ngân sách chi tiêu chính phủ,
trong đó chi tiêu quốc phòng chịu sự cắt giảm 490 tỷ USD trong vòng 10 năm tới sẽ
ảnh hưởng đến khả năng trang bị vũ khí mới [8], duy trì các căn cứ quân sự và các
hoạt động huấn luyện, diễn tập và hợp tác quân sự của Mỹ tại châu Á – Thái Bình
Dương.
Thứ hai, sự điều chỉnh của Mỹ hướng trọng tâm chiến lược về khu vực châu
Á – Thái Bình Dương đi cùng với những khó khăn trong việc xử lý mối quan hệ với
Trung Quốc. Trong bối cảnh, những tham vọng của Trung Quốc ngày càng lớn thì
những chính sách của Mỹ hướng tới kiềm chế, cô lập Trung Quốc có thể mang lại
tác dụng ngược khi quốc gia này trở nên kích động và hiếu chiến hơn. Sự thực thi,
điều chỉnh mối quan hệ quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ và Đài Loan, nếu
không thận trọng rất có thể làm bùng phát xung đột trong khu vực.
Thứ ba, chiến lược mới của Mỹ cam kết duy trì an ninh khu vực và tăng
cường quan hệ với các nước đồng minh, có thể khiến các nước đang có tranh chấp
với Trung Quốc như Nhật Bản, Philippines… hiểu rằng họ đang được sự chống
lưng của Mỹ. Điều này có thể dẫn tới các hành động cứng rắn, lôi kéo sự can dự
của Mỹ dễ gây xung đột. Hoặc ngược lại nếu Mỹ không thể đảm bảo cam kết của
mình thì sẽ khiến các nước trong khu vực đi theo xu thế tự củng cố sức mạnh,
chạy đua vũ trang hoặc bị Trung Quốc chi phối. Vị thế của Mỹ như vậy sẽ bị suy
giảm, mất niềm tin từ các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Ngoài ra, các

84
nước đang phát triển tại khu vực cũng đang tìm cách tập hợp lại với nhau, gia
tăng tiếng nói của mình và khó có thể chấp nhận một vị thế lãnh đạo bá chủ của
bất kì quốc gia nào.
Đánh giá tác động, với tư cách là quốc gia có sức mạnh kinh tế, quân sự đứng
đầu thế giới, mỗi sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ luôn có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến cục diện an ninh, chính trị, kinh tế toàn cầu và khu vực. Việc thực thi
chiến lược của Mỹ có thể sẽ khiến cho tập trung cạnh tranh quyền lực hướng về
châu Á – Thái Bình Dương. Chính sách của Mỹ khó tránh khỏi việc tạo ra cuộc
ganh đua quyền lực quyết liệt tại khu vực, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Mỹ.
Nhiều quốc gia trong khu vực đặc biệt là các đồng minh của Mỹ sẽ có được sự
bảo trợ an ninh tương đối trừ Mỹ. Nếu Mỹ tham gia giải quyết tốt các xung đột
trong khu vực sẽ góp phần đảm bảo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của
các quốc gia khu vực. Tuy nhiên, sự tham gia của Mỹ cũng có thể khiến các quốc
gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, sẽ phải đứng trước thách thức nan giải
trong việc lựa chọn Trung Quốc hay Mỹ nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia của mình
hoặc các chính sách nhằm cân bằng trong mối quan hệ với hai quốc gia này.

85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Nguyễn Nam Dương (2011), “Về cấu trúc an ninh khu vực châu Á – Thái Bình
Dương”, Nghiên cứu Quốc tế, số 3(86), tr.119-136
2. Nguyễn Hoàng Giáp (2005), “Tác động của sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu
mới của Mỹ đến Đông Nam Á”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 04(73), tr.17-23
3. Dương Phú Hiệp & Vũ Văn Hà (chủ biên) (2006), Cục diện châu Á – Thái Bình
Dương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Trương Duy Hòa (2012), “An ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương: các
điều chỉnh chính sách và định hướng hợp tác” (Hội thảo Khoa học Quốc tế Việt
Nam – Nhật Bản), Nghiên cứu Đông Nam Á, tháng 2/2012
5. Vũ Lê thái Hoàng (2012), "Sức mạnh thông minh, thế kỷ Thái Bình Dương và
học thuyết đối ngoại Obama", Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (88), tr.242
6. Holley Benner (2009), “Vai trò lãnh đạo toàn cầu trong thế kỷ XXI: Một chiến
lược cho Tổng thống mới của Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, số 10(139), tr.63
7. Nguyễn Lan Hương (2011), “Một số điều chỉnh chính sách đối ngoại của tổng
thống Obama”, Châu Mỹ ngày nay, số 12, tr.43-53
8. Nguyễn Lan Hương (2012), “Mỹ và trọng tâm chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương trong năm 2011”, Châu Mỹ ngày nay, số 09, tr.38-47
9. Nguyễn Thái Yên Hương (2012), “Chính sách tăng cường hiện diện của Mỹ tại
khu vực châu Á – Thái Bình Dương sau năm bầu cử 2012”, Châu Mỹ ngày nay,
số 10, tr.3-15
10. Nguyễn Thái Yên Hương (2012), “Những biến động trong chính sách của Mỹ
đối với châu Á – Thái Bình Dương: cơ sở lý luận và thực tiễn”, Nghiên cứu lịch
sử, số 4
11. Trần Khánh (2014), Hợp tác và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung ở Đông Nam
Á ba thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, NXB Thế Giới, Hà Nội
12. Trần Khánh (2015), Triển vọng ASEAN và sự chi phối của các nước lớn -
Những thách thức đối với Việt Nam, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (181), tr.
3-10

86
13. Bùi Quốc Khánh & Lê Đình Tĩnh (2013), “Chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ:
một năm nhìn lại”, Châu Mỹ ngày nay, số 01(178), tr.32-42
14. Cù Chí Lợi (2013), “Điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ dưới thời tổng
thống Obama”, Châu Mỹ ngày nay, số 10, tr.3-12
15. Quỳnh Mai (2012), “Về sự can dự của Mỹ vào cấu trúc an ninh đa phương khu
vực châu Á – Thái Bình Dương”, Châu Mỹ ngày nay, số 08, tr.19-27
16. Vũ Thị Mai (2014), “Chiến lược an ninh của Mỹ và Trung Quốc ở châu Á –
Thái Bình Dương và ảnh hưởng của nó tới an ninh khu vực Đông Bắc Á hiện
nay”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 05(159), tr.11-20
17. Nguyễn Tuấn Minh (2005), “Điều chỉnh chính sách kinh tế của Mỹ đối với
ASEAN sau 11/9”, Châu Mỹ ngày nay, số 12, tr.3-12
18. Phạm Quang Minh (2007), “Một số nhân tố tác động đến chính sách Đông Á
của Mỹ hiện nay”, Châu Mỹ ngày nay, số 01, tr.30-32
19. Bùi Thành Nam (2014), “Vai trò của Mỹ đối với tiến trình tự do hóa thương
mại ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương: thực trạng và dự báo”, Châu Mỹ
ngày nay, số 01, tr.3-15
20. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Mỹ: Tổng thống Obama hướng tới năm 2012
và châu Á – Thái Bình Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 034, thứ tư,
ngày 8/2/2021
21. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Khi Mỹ hướng về châu Á – Thái Bình
Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 096, thứ tư, ngày 11/4/2012
22. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Về chiến lược trở lại châu Á của Mỹ”, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, số 146, thứ bảy, ngày 2/6/2012
23. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Chiến lược quân sự của Mỹ ở châu Á – Thái
Bình Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 208, thứ sáu, ngày 3/8/2012
24. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Chiến lược tái cân bằng quân sự của Mỹ ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 221, thứ năm,
ngày 16/8/2012

87
25. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của
Mỹ và cục diện an ninh xung quanh Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt,
số 286, chủ nhật, ngày 21/10/2012
26. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Đánh giá về tình hình khu vực châu Á – Thái
Bình Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 340, thứ sáu, ngày 14/12/2012
27. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Những tiềm năng và hạn chế của chiến lược
tái cân bằng của Mỹ ở Đông Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 007, thứ ba,
ngày 8/1/2013
28. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Châu Á – Thái Bình Dương: chiến trường mới
của Mỹ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 045, thứ ba, ngày 19/2/2013
29. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương và
sự ứng phó của Nga”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 092, chủ nhật, ngày
7/4/2013
30. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Mỹ lợi dụng vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên
để đạt được mục tiêu trở lại châu Á – Thái Bình Dương”, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, số 096, thứ năm, ngày 11/4/2013
31. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Mỹ điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương và ảnh hưởng đối với ngoại giao và an ninh Trung Quốc”, Tài liệu tham
khảo đặc biệt,số 145, chủ nhật, ngày 2/6/2013
32. Thông tấn xã Việt Nam (2014), “Chiến lược “xoay trục” của Mỹ và nguy cơ
chiến tranh ở châu Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 147, thứ năm, ngày
12/06/2014
33. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Xung đột trên biển Đông buộc Mỹ phải triển
khai chính sách trở lại châu Á – Thái Bình Dương”, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, số 179, thứ bảy, ngày 6/7/2013
34. Nguyễn Nhâm (2011), “Chiến lược can dự trở lại” châu Á – Thái Bình Dương
của Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, số 05, tr.43-52
35. Lê Văn Sang (2014), “Cục diện địa chính trị Đông Á trong bối cảnh Mỹ xoay
trục chiến lược về châu Á – Thái Bình Dương”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số
02(156), tr.3-8

88
36. Nguyễn Thiết Sơn (2011), “Obama và chính sách Đông Nam Á của Mỹ hiện
nay”, Châu Mỹ ngày nay, số 03, tr.3-15
37. Nguyễn Thiết Sơn (2012), “Hoa Kỳ “quay lại châu Á” và chính sách với
ASEAN”, Châu Mỹ ngày nay, số 04, tr.25-33
38. Kỷ yếu hội thảo quốc tế (2011), Vai trò của Việt Nam trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương, NXB thế giới
39. Trần Nguyễn Tuyên & Nguyễn Kỳ Sơn (2010), "Điều chỉnh chính sách đối
ngoại của chính quyền Obama hiện nay", Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 06
40. Chúc Bá Tuyên, (2012), Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Mỹ đầu
thế kỷ XXI và những tác động khu vực và Việt Nam, Châu Mỹ ngày nay, số 8,
tr.55
41. Lê Khương Thùy (2010), “Sự điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của chính
quyền B. Obama”, Châu Mỹ ngày nay, số 12(153), tr.36-51
42. Lộc Thị Thủy (2014), “Chính sách Đông Bắc Á của Mỹ trong chiến lược hướng
đến châu Á – Thái Bình Dương”, Châu Mỹ ngày nay, số 01(190), tr.52-57
43. Trần Thị Vinh (2012), “Đông Nam Á trong chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ (từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2011)”, Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 01(142), tr.3-13
Tài liệu từ các website
44. Thùy Anh (2013), “Mỹ tăng cường triển khai chiến lược tái cân bằng châu Á –
Thái Bình Dương”, Tin tức Bộ Quốc phòng,
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-my/3581-m-tng-cng-trin-khai-chin-lc-
tai-can-bng-chau-a-thai-binh-dng
45. Nguyễn Ngọc Anh (2015), “Chính sách tái cân bằng Đông Nam Á của Mỹ năm
2015”, http://tapchiqptd.vn/zh/quoc-phong-quan-su-nuoc-ngoai/chinh-sach-tai-
can-bang-dong-nam-a-cua-my-nam-2015/7060.html
46. Đông Bình (2015), “Mỹ giúp Nhật Bản – Australia xây dựng quan hệ đồng
minh đối phó với Trung Quốc”, http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-
phong/My-giup-Nhat-BanAustralia-xay-dung-quan-he-dong-minh-doi-pho-
Trung-Quoc-post160060.gd

89
47. Phạm Thị Thanh Bình (2013), “Châu Á – Thái Bình Dương trước thềm thế kỉ
XXI”,http://www.ncseif.gov.vn/sites/en/Pages/chaua-thaibinhduong-nd-
15543.html
48. Thùy Chi (2015), “Kinh tế Trung Quốc dực kiến tăng trưởng 6,9% trong năm
nay”, http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/kinh-te-trung-quoc-du-kien-tang-truong-
6-9-trong-nam-nay-20150922142544486.chn
49. Bộ tài chính (2015), Kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương(TPP),http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1539781?pers
_id=2177092&item_id=184896009&p_details=1
50. Bộ tài chính (2015), Hội nghị xúc tiến đầu tư của Việt Nam tại Hoa Kỳ: nhiều
cơ hội đầu tư mới,
http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1539781?pers_id=2177092
&item_id=175672091&p_details=1
51. Lê Văn Cương & Tạ Quang Chuyên (2012), “Mỹ trở lại châu Á và tác động của
nó đến an ninh khu vực, http://tapchiqptd.vn/zh/quoc-phong-quan-su-nuoc-
ngoai/my-tro-lai-chau-a-va-tac-dong-cua-no-den-an-ninh-khu-vuc/1459.html
52. Đức Dương (2015), “Vì sao Trung Quốc không ngừng tăng ngân sách quốc
phòng”,http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/phan-tich/vi-sao-trung-quoc-khong-
ngung-tang-ngan-sach-quoc-phong-3153441.html
53. Phương Đăng (2014), “Mỹ chi 1,6 nghìn tỷ USD vào cuộc chiến ở Iraq,
Afghanistan”, http://danviet.vn/tin-tuc/my-chi-16-nghin-ty-usd-vao-cuoc-chien-
o-iraq-afghanistan-519306.html
54. Nghiên cứu Biển Đông (2010), “Chiến lược an ninh châu Á – Thái Bình Dương
của chính quyền Obama”, http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-my/1140-
chien-luoc-an-ninh-chau-a-thai-binh-duong-cua-chinh-quyen-obama
55. Theo nghiên cứu Biển Đông (2015), Một số nhận định về Chiến lược an ninh
biển Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ năm 2015,
http://nguyentandung.org/mot-so-nhan-dinh-ve-chien-luoc-an-ninh-bien-chau-
a-thai-binh-duong-cua-my-nam-2015.html

90
56. Đỗ Đức Định (2014), Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ từ bình thường hóa đến đối
tác toàn diện, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-
doi-moi/2014/27625/Quan-he-Viet-Nam-Hoa-Ky-tu-binh-thuong-hoa-den.aspx
57. Hương Giang (2012), “Chiến lược của Mỹ đối với Châu Á - Thái Bình
Dương”,http://biendong.net/binh-luan/515-chin-lc-ca-m-i-vi-khu-vc-chau-a-thai-
binh-dng.html
58. Minh Hiển (2011), “2011 – Năm châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ”,
http://vovworld.vn/vi-VN/Binh-luan/2011-Nam-chau-A-Thai-Binh-Duong-cua-
My/63159.vov
59. Vũ Hợp (2015), “Chiến lược "xoay trục" của Mỹ: Chuyển trọng tâm sang châu Á - TBD (P1)”,
http://tintuc.vn/quan-su/chien-luoc-xoay-truc-cua-my-chuyen-trong-tam-sang-
chau-a-tbd-p1-63515
60. Thái Hùng (TTXVN), “Năm 2011 - Năm châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ”,
http://www.tinmoi.vn/nam-2011-nam-chau-a-thai-binh-duong-cua-my-
01676637.html
61. Thái Hùng (2015), Những mốc đáng nhớ trong 20 năm bình thường hóa Việt
Nam-HoaKỳ,http://www.vietnamplus.vn/nhung-moc-dang-nho-trong-20-nam-
binh-thuong-hoa-viet-namhoa-ky/331471.vnp
62. Tuệ Linh (2015), Quan hệ Việt – Mỹ: Từ bình thường hóa quan hệ đến đối tác
toàn diện, http://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/tin-tuc/quan-he-viet-my-tu-
binh-thuong-hoa-quan-he-den-doi-tac-toan-dien-59603.html
63. Theo VOV News (2015),Chính sách đối ngoại của Mỹ với ASEAN và Việt
Nam,http://www.langson.gov.vn/ngv/content/ch%C3%ADnh-s%C3%A1ch-
%C4%91%E1%BB%91i-ngo%E1%BA%A1i-c%E1%BB%A7-
m%E1%BB%B9-v%E1%BB%9Bi-asean-v%C3%A0-vi%E1%BB%87t-nam-1
64. Nguyễn Nhâm (2013), “Vì sao Mỹ coi Châu Á là trọng tâm chiến lược”,
http://vov.vn/The-gioi/Quan-sat/Vi-sao-Mycoi-chau-A-la-trong-tam-chien-
luoc/192108.vov

91
65. Quốc Phòng (2011), “Mỹ hiện diện ở Thái Bình Dương hơi sớm?”,
http://baodatviet.vn/quoc-phong/my-hien-dien-o-thai-binh-duong-hoi-som-
2244888/
66. Trần Quang (2013), Những tiềm năng và hạn chế của chiến lược tái cân bằng
của Mỹ ở Đông Á, http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-my/3283-nhung-
tiem-nang-va-han-che-cua-chien-luoc-tai-can-bang-cua-my-o-dong-a
67. Trần Quang (2014), “Đánh giá chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á-Thái
Bình Dương”, Theo Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ,
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-my/4078-danh-gia-chien-luoc-tai-can-
bang-cua-my-tai-cha-a-thai-binh-duong
68. Hãng tin Trung Quốc (2015), “ IMF dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu
vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2015 là 5,6%”,
http://vietnamese.cri.cn/421/2015/05/08/1s210597.htm
69. Hoàng Sơn (2013), “Khai phá tiềm năng”, http://news.go.vn/the-gioi/tin-
1215158/khai-pha-tiem-nang.htm
70. An Thái (2015), “Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết về biển Đông”,
http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/ha-vien-my-thong-qua-nghi-quyet-ve-
bien-dong-3210987/
71. Phan Hữu Thắng (2015), “Đầu tư vào Việt Nam: Mỹ là số 1”,
http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/dau-tu-vao-viet-nam-my-se-la-so-
1/1090130/
72. Hà Thu (2015), “Hoàn tất đàm phán hiệp định thế kỷ - TPP”,
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-te/hoan-tat-dam-phan-hiep-dinh-
the-ky-tpp-3290056.html
73. Thanh Thúy (2015), Việt Nam - Hoa Kỳ: tăng cường hợp tác toàn diện vì lợi
ích của nhân dân hai nước,http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-
tren-duong-doi-moi/2015/34139/Viet-Nam-Hoa-Ky-tang-cuong-hop-tac-toan-
dien-vi.aspx

92
74. Liên Trang (2015), Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ: Từ cấm vận đến hợp tác toàn
diện, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/2-3350-quan-he-viet-namhoa-ky--tu-cam-
van-den-hop-tac-toan-dien.html
75. Ngô Minh Trí (2015), Chiến lược an ninh hàng hải của Mỹ ở châu Á - Thái
Bình Dương, http://thanhnien.vn/quoc-phong/chien-luoc-an-ninh-hang-hai-cua-
my-o-chau-a-thai-binh-duong-607699.html
76. Phan Tùng (2012), “Tổng thống Obama và chiến lược châu Á - Thái Bình
Dương”,http://vov.vn/the-gioi/ho-so/tong-thong-obama-va-chien-luoc-chau-a-
thai-binh-duong-236875.vov
Tài liệu Tiếng Anh
77. Bader, Jeffrey A. (2012),Obama and China‟s Rise: An Insider‟s Account of
America‟s Asia Strategy, Brookings Institution Press. Kindle Edition
78. Barack Obama (2009), Remarks by the President on a New Beginning, Cairo
University, Cairo, Egypt. 4 June 2009. (Washington, DC: The White House)
79. Bronson Percival (2011), America returns to Asia: the South China sea
80. Brzezinski, Zbigniew (2012). Strategic Vision: America and the Crisis of
Global Power, Basic Book, New York Times 2012
81. Friedberg, Aaron L. (2011), A Contest for Supremacy: China, America, and the
Struggle for Mastery in Asia (New York: Norton, 2011)
82. Indyk, Martin S., Kenneth G. Lieberthal and Michael E. O’Hanlon Bending
History: “Barack Obama‟s Foreign Policy”, (Brookings FOCUS Book) (2012)
83. John Pomfret (2010), U.S. faces long odds in improved relations with Asia
84. Ralph A. Cossa, Security Dynamics in Eas Asia: Geopolitics vs. Regional
Institutions David Shambaugh and Michael Yahuda (2008) (edited).
International Relations in Asia. Rowman & Littlefield Publishers, Inc.
85. Ralph A. Cosa, Brad Glosserman, Michael A. McDevitt (2009), The United
States and the Asia Pacific Region: Security Strategy for the Obama
Administration, Center for A New American Security (CNA)

93
86. Robert G. Sutter, Michael E. Brown, Timothy T.A. Adamson, Mike M.
Mochizuki and Deepa Ollapally (2013), Balancing acts: the U.S. rebalance and
Asia – Pacific stability
87. Singh, Robert(2012),Barack Obama’s Post-American Foreign Policy: “The
Limits of Engagement”
88. The Asia Foundation (2008), American‟s Role in Asia-Asian and American View
89. The White House “President Obama‟s States of the Union address” on Jan. 24, 2012
90. U.S. Government(2014), Re-Balacing the Rebalance: Resourcing U.S
Diplomatic Strategy in the Asia-Pacific Region, April 17,2014
91. Watson, Robert (2012),The Obama Presidency: A Preliminary Assessment,
(State University of New York Press
92. Wang Dong and Yin Chengzhi, China‟s Assessments of U.S rebalancing to Asia
93. Yak Yeow Kueh, Brian Bridges (2013), Our future history will be more
determined by our position on the Pacific facing China than by our position on
the Atlantic facing Europe.
Tài liệu từ các website
94. Deputy Secretary of Defense Ashton B. Carter, New York City, August 01,
2012, “The U.S. Strategic Rebalance to Asia: A Defense Perspective”,
http://www.defense.gov/speeches/speech.aspx?speechid=1715
95. East – West Center, Clinton: “America‟s future linked to future of Asia Pacific
region”,http://www.eastwestcenter.org/news-center/east-west-wire/clinton-
americas-future-linked-to-future-of-asia-pacific-region
96. Hilary Clinton (2011), “America‟s Pacific Century, Foreign Policy, November
2011”,http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century
97. Fred Dews (2014),“Pivot, Rebalance, or Reinvigorate? Words Matter in U.S.
Strategy toward Asia”, http://www.brookings.edu/blogs/brookings-
now/posts/2014/04/pivot-rebalance-reinvigorate-words-matter-us-strategy-
toward-asia
98. The White House (2012), “Resourcing the Rebalance toward the Asia-Pacific
Region”,http://www.whitehouse.gov/blog/2013/04/12/resourcing-rebalance-
toward-asia-pacific-region

94
99. United States Senate Committee on Foreign Relations (2014) “Re-Balancing
The Rebalance: Resourcing U.S. Diplomatic Strategy In The Asia – Pacific
Region”,http://www.foreign.senate.gov/download/us-diplomatic-strategy-asia-
pacific-region
100. United States Department of State, “Remarks aboard USS Fitzgerald
commemorating the 60th anniversary of the U.S-Philippines Mutual Defense
Treaty”,http://www.state.gov/secretary/
101. Zhi Linfei, Ran Wei (2011), “Yearender: Obama administration‟s Asia Pivot
strategy sows more seeds of suspicion than cooperation”,
http://news.xinhuanet.com/enlish/indepth/2011-12/23/c_131323762.htm
102. Bộ ngoại giao Mỹ, http://www.state.gov
103. Nhà Trắng, http://www.whitehouse.gov
104. Đại sứ quán Mỹ, http://www.usembassy.gov/east-asia.html
105. Bộ quốc phòng Mỹ,http://www.defense.gov
106. Foreign Policy, http://www.foreignpolicy.com

95
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---***---
GIẤY XÁC NHẬN SỬA CHỮA LUẬN VĂN
Kính gửi: PGS.TS. Phạm Quang Minh
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ khoa học chuyên
ngành Quan hệ Quốc tế (Mã số: 60310206).
Tên em là Nguyễn Thị Huế, học viên cao học khóa 10, chuyên ngành Quan
hệ Quốc tế, Khoa Quốc tế học. Em đã hoàn thành bảo vệ Luận văn thạc sĩ khoa học
chuyên ngành Quan hệ Quốc tế, mã số 60310206 ngày 09 tháng 01 năm 2016 với
đề tài: “Sự điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời
Obama”
Theo những đánh giá, nhận xét và kết luận của Hội đồng chấm luận văn ngày
09 tháng 01 năm 2016, luận văn của em đã được sửa chữa như sau:
- Viết lại phần mở đầu của luận văn, gồm các phần theo đúng quy định đã
hướng dẫn của Bộ GD-ĐT
- Rút gọn phần câu hỏi nghiên cứu
- Chỉnh sửa một số lỗi kỹ thuật, diễn đạt trong luận văn
- Trong chương 1 đã bổ sung phân định rõ phạm vi châu Á – Thái Bình Dương
trong điều chỉnh chiến lược của Mỹ, bao gồm hai khu vực chính là Đông
Nam Á và Đông Bắc Á
- Đã thống nhất lại cách chú thích, cách phiên âm tên nước ngoài
Nay em làm đơn này kính đề nghị thầy: Phạm Quang Minh – là chủ tịch Hội
đồng xác nhận việc bổ sung nói trên của em đã tuân thủ theo đúng yêu cầu.
Em xin trân trọng cảm ơn.
Xác nhận của giáo viên hƣớng dẫn Hà Nội, Ngày …. tháng … năm 20…
Học viên

Xác nhận của Chủ tịch hội đồng

You might also like